

Help meee
Câu 1: Kí ức tuổi thơ chúng ta đều có những người thầy, người cô hết lòng dạy dỗ, yêu thương học sinh. Hãy viết bài văn (khoảng 300 chữ) bày tỏ cảm nghĩ của em về 1 người thầy hoặc cô giáo đã dạy mà em yêu mến.
Câu 2: Các em đã đọc nhiều câu chuyện lịch sử, hãy viết bài văn kể lị sự việc liên quan đến 1 nhân vật hoặc sự kiện lịch sử mà em yêu thích.
Hãy luôn nhớ cảm ơn và vote 5*
nếu câu trả lời hữu ích nhé!
Đáp án:
câu 1:
bài làm
Nếu nói những trang sách,những trang giáo án là con đò đưa em qua sông thì thầy cô chính là người lái đò thầm lặng để đưa em đến bến bờ tri thức.Và tận sâu trong trái tim em,hình bóng 1 người con gái đã gần 50 nhưng vẫn luôn tươi cười mỗi khi đứng lớp,đó là cô giáo chủ nhiệm của chúng em.Cô,là người đã chắp cánh cho biết bao thế hệ học trò và là người đã hi sinh cả tuổi thanh xuân để cống hiến cho ngành nhà giáo.đối với em,cô vừa là 1 người giáo viên mà cô cũng vừa là 1 người mẹ.qua đoạn văn này,em xin gửi lời chúc sức khỏe đến cô và cũng chúc sẽ cõ 1 ngày nhà giáo thật vui và hạnh phúc.
câu 2:
bài làm
nước Việt Nam ta đã từng trải qua rất nhiều cuộc đấu tranh dành lại độc lập tự do cho đất nước.Và chúng ta cũng có rất nhiều vị anh hùng nổi tiếng được ghi vào sử sách nước nhà,tiêu biểu phải kể đến 2 Bà Trưng,Bà Triệu,Ngô Quyền,Võ Thị Sáu,Phan Đình Giót,Đinh Bộ Lĩnh,....nhưng trong số nhũng người anh hùng trên,có 1 người mà trong tim mỗi người dân Việt Nam chúng ta luôn nhớ tới dù Người đã đi xa,Người là CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH.Thân sinh ra Người đã đặt tên cho Người là Nguyễn Sinh Cung,cái tên ấy mang ý nghĩa là sự mạnh mẽ và rắn rỏi.sau đó Người đổi thành Nguyễn Tất Thành,Nguyễn Ái Quốc,cuối cùng người đổi thành Hồ Chí Minh. Người sinh ngày 19/5/1890 và mất ngày 2/9/1969.Người sinh ra trong một gia đình nhà Nho nghèo thuộc làng Sen, nay là làng Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ An.Thân phụ của Người là cụ Nguyễn Sinh Sắc (1862 – 1929) còn được gọi là Cụ Phó Bảng. Thân mẫu là cụ Hoàng Thị Loan (1868-1901), bà là hình mẫu cho một người phụ nữ Việt Nam hết lòng vì gia đình, chồng con. Gia đình người có 3 anh chị em bao gồm bà Nguyễn Thị Thanh, ông Nguyễn Sinh Khiêm và em út là Nguyễn Sinh Nhuận.ngày 5/6/1911, trên con tàu Amiral Latouche Tréville, chàng trai trẻ Nguyễn Tất Thành rời bến cảng Nhà Rồng, mang trong tim khát vọng “tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi”. Người xác định mục tiêu rõ ràng là tìm con đường đấu tranh đúng đắn để giải phóng dân tộc, giành độc lập cho Tổ quốc, tự do, hạnh phúc cho đồng bào mình.Trên hành trình tìm đường cứu nước, Bác đã vượt qua ba đại dương, bốn châu lục, đi qua 30 nước trên thế giới, và đến đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và thấy ở đấy con đường cứu nước giải phóng cho dân tộc Việt Nam. Năm 1930, người đã sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam - một Đảng cách mạng chân chính để tập hợp quần chúng quyết “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”…Mùa xuân năm 1941, sau 30 năm bôn ba hoạt động ở nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh trở về nước để trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam. “Khi phong trào cách mạng nghe tin Bác trở về nước lập tức phát triển mạnh. Nhân dân đoàn kết, quyết tâm đi theo Đảng, theo Bác, theo sự nghiệp cách mạng”, PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc cho hay.Sau khi về nước, Bác đã triệu tập và tổ chức Hội nghị Trung ương 8 khóa I. Hội nghị đã xác lập tư tưởng chỉ đạo mang tính bước ngoặt: đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết, trước hết. Khẩu hiệu khi đó đề ra là: Tổ quốc trên hết, dân tộc trên hết. Nghị quyết Trung ương 8 khóa I nêu rõ: “Trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.Cùng với đó, Hội nghị cũng quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh), lấy cờ đỏ sao vàng năm cánh làm cờ của Việt Minh và sẽ làm cờ Tổ quốc. Mặt trận Việt Minh ra đời với Tuyên ngôn, Chương trình và Điều lệ cụ thể, nêu rõ những chính sách cơ bản về chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, xã hội, ngoại giao và các chính sách cụ thể đối với các tầng lớp nhân dân nhằm liên hiệp hết thảy các giới đồng bào yêu nước, không phân biệt giàu nghèo, già trẻ, gái trai, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị, “cốt thực hiện hai điều mà toàn thể đồng bào đang mong ước là: Làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập; làm cho dân Việt Nam được sung sướng, tự do”.Từ những bước chuẩn bị chiến lược trên, dân tộc Việt Nam đã sẵn sàng cho thời khắc vĩ đại nhất của thế kỷ XX - cuộc Tổng khởi nghĩa mùa Thu năm 1945, giành lại chính quyền về tay nhân dân, mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc.Ngày 2/9/1945, Hà Nội được vinh dự thay mặt các địa phương trong cả nước, tổ chức ngày lễ độc lập để Chính phủ lâm thời ra mắt đồng bào; đồng thời nước Việt Nam chính thức công bố quyền độc lập và thiết lập thể chế dân chủ cộng hòa.Từ sáng sớm, cả Hà Nội bừng lên trong màu cờ đỏ sao vàng và đèn, hoa rực rỡ. Những biểu ngữ lớn bằng chữ Việt, Pháp, Nga, Anh, Trung Quốc chăng khắp các đường phố: "Nước Việt Nam của người Việt Nam”, “Độc lập hay là chết", "Ủng hộ Chính phủ lâm thời", "Ủng hộ Chủ tịch Hồ Chí Minh”...Từ giữa trưa, nhân dân thành phố và các vùng lân cận đã cuồn cuộn đổ về quảng trường Ba Đình, nơi dựng lễ đài Độc lập; tràn ngập các phố chung quanh. Đúng 14 giờ, các thành viên của Chính phủ lâm thời bước lên lễ dài". Bài Tiến quân ca vàng lên hùng tráng, lá cờ đỏ sao vàng được từ từ kéo lên. Một rừng cánh tay to lớn chào, bàn tay nắm lại.Trong không khí trang nghiêm, Chủ tịch Hồ Chí Minh trang trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập lịch sử, tuyên bố với toàn thể nhân dân, với thế giới nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa độc lập, tự do ra đời.Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản “Tuyên ngôn độc lập”, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.Trong đó, Người khẳng định: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.Bản Tuyên ngôn Độc lập, đó là việc Bác Hồ dẫn lại hai bản tuyên ngôn nổi tiếng: Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ năm 1776 và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791, khẳng định những quyền cơ bản: “Quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” là quyền trời cho, không ai có thể tước đoạt.Ở đó, Bác vừa khẳng định quyền con người, vừa nâng tầm thành quyền dân tộc. Và sâu xa hơn, Bác như muốn gửi đến các cường quốc, đặc biệt là Mỹ và Pháp, một thông điệp rõ ràng: Nếu cha ông các ông từng viết ra những bản tuyên ngôn ấy, thì hôm nay, các ông không có lý do gì để chối bỏ quyền Độc lập, Tự do, Hạnh phúc của nhân dân Việt Nam.Trong phần cuối của bản Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: "Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy". Theo ông Hà, câu nói ấy chính là lời thề thiêng liêng của cả một dân tộc trước bạn bè quốc tế và trước lịch sử. Đó không chỉ là một tuyên bố mang tính pháp lý mà còn là một thông điệp mạnh mẽ, đanh thép gửi đến tất cả những thế lực từng hoặc có ý định xâm lược Việt Nam: Chúng tôi rất yêu quý nền độc lập này, và chúng tôi sẵn sàng đánh đổi tất cả - kể cả tính mạng - để bảo vệ nó.Thủ đô Hà Nội ngày ấy mỗi ngôi nhà là một pháo đài, mỗi đường phố là một chiến tuyến, mỗi người dân là một chiến sĩ. Ảnh: Bộ đội, tự vệ cùng nhân dân thành phố đắp lũy, dựng vật cản chặn quân Pháp trên phố Mai Hắc Đế.Quân và dân Thủ đô lập chốt chiến đấu trên phố Hàng BàiNgày 26/9/1945, tại ga Hàng Cỏ, đoàn quân Nam tiến đầu tiên rời Hà Nội vào chi viện cho miền Nam, mở đầu cho phong trào Nam tiến, cả nước sát cánh cùng đồng bào Nam Bộ và Nam Trung Bộ đánh giặc cứu nước.Sáng 20/12/1946, tại Hang Trầm (huyện Chương Mỹ, Hà Nội), Đài Tiếng nói Việt Nam đã phát đi “Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh tới đồng bào, chiến sĩ cả nước.Tư tưởng ấy không chỉ trong ngày 2/9/1945, mà là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Năm 1966, giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ đang vào giai đoạn khốc liệt, Bác lại khẳng định một lần nữa: "Không có gì quý hơn độc lập, tự do." Đó là lời hiệu triệu tiếp nối của một triết lý sống, một lý tưởng cách mạng mà Hồ Chí Minh đã kiên định trong hành trình tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản".Bản Tuyên ngôn Độc lập, vì vậy, không chỉ là một tuyên bố về quyền tự do của một dân tộc, mà còn là sự thể hiện quyết tâm tuyệt đối, bất di bất dịch của nhân dân Việt Nam trong việc bảo vệ nền độc lập non trẻ, giữ vững giang sơn gấm vóc, và khẳng định một chân lý bất diệt: Không ai có thể khuất phục được ý chí tự cường của nhân dân Việt Nam.
Hồ Chí Minh là người chiến sĩ cộng sản kiên trung, là người con anh hùng của đất nước Việt Nam, đồng thời là vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc. Bác là ánh sáng của lý tưởng và niềm tin trong lòng mỗi người dân Việt Nam. Bác đã đi xa nhưng sao dường như vẫn đang dõi theo từng bước tiến của dân tộc. Và Bác Hồ của chúng ta sẽ sống mãi cùng non sông đất nước.
(LƯU Ý:CÂU 1 CẬU TỰ THAY THÔNG TIN CỦA GVCN CẬU VÀO NHÉ,CÒN CÂU 2 NẾU DÀI QUÁ THÌ CẬU VIẾT VẮN TẮT LẠI NHÉ)
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
Bảng tin
