

Hãy luôn nhớ cảm ơn và vote 5*
nếu câu trả lời hữu ích nhé!

Đây là câu trả lời đã được xác thực
Câu trả lời được xác thực chứa thông tin chính xác và đáng tin cậy, được xác nhận hoặc trả lời bởi các chuyên gia, giáo viên hàng đầu của chúng tôi.
Trong nền văn học trung đại Việt Nam, đề tài về người phụ nữ luôn là đề tài được rất nhiều những cây bút lớn lựa chọn, gửi gắm. Những tác phẩm ấy không chỉ là lời phản ánh với xã hội phong kiến đầy rẫy bất công hay tôn vinh những phẩm chất cao đẹp của người phụ nữ mà còn là nỗi niềm khát khao được hạnh phúc của họ. Có rất nhiều những tác phẩm văn thơ nói về số phận của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến nhưng nếu không nhắc đến tác phẩm "Chinh phụ ngâm" của Đặng Trần Côn với đoạn trích "Nỗi niềm chinh phụ" do Đoàn Thị Điểm dịch lại thì quả là một thiếu xót to lớn.
Trước hết, về tác giả Đặng Trần Côn, ông là người làng Nhân Mục, nay thuộc Hà Nội; ông sống vào khoảng nửa đầu thế kỷ thứ $18$. Ông là người đỗ đạt, đã làm quan đến chức Ngự sử đài chiếu khám. Ông đã để lại cho nền văn học nước nhà rất nhiều những tác phẩm có giá trị, trong đó phải kể đến tác phẩm "Chinh phụ ngâm" và đoạn trích "Nỗi niềm chinh phụ" là một phần trong đó. Đoạn trích gồm $21$ câu thơ, từ câu $41$ đến $64$ của tác phẩm. Đoạn trích là nỗi sầu thương, cô đơn, nhớ nhung của người phụ nữ trong cảnh chờ chồng ra trận.
Bốn câu thơ đầu của đoạn trích là cảnh chia tay và nỗi đau đớn của người phụ nữ khi tiễn chồng ra trận:
"Tiếng nhạc ngựa lần chen tiếng trống
Giáp mặt rồi phút bỗng chia tay
Hà lương chia rẽ từng ngày
Bên đường, trông bóng cờ bay ngùi ngùi."
Đoạn thơ mở ra bằng âm thanh của chiến trận với "tiếng nhạc ngựa" xen với "tiếng trống". Âm thanh ấy mở ra khung cảnh gấp gáp, khẩn trương của chiến tranh. Không khí ấy còn khẩn trương tới nỗi át đi tiếng lòng của người vợ rằng dù mới chỉ giáp mặt đã phải chia ly. Tưởng chừng như đã có hạnh phúc nhưng hạnh phúc ấy lại ngắn ngủi đến nỗi không kịp nói lời từ biệt. Hình ảnh "hà lương chia rẽ từng ngày" tượng trưng cho sự tan vỡ của hạnh phúc chỉ còn được tính theo ngày. Đến ngày tiễn chồng, người vợ chỉ có thể ngậm ngùi gửi gắm niềm thương nỗi nhớ vào trong lá cờ.
Khổ thơ trước đã miêu tả về cảnh chia tay thì ở bốn câu thơ tiếp theo là cảnh người vợ tiễn chồng ra trận:
"Quân trước đã gần ngoài doanh Liễu
Kị sau còn khuất nẻo Tràng Dương
Quân đưa chàng ruổi lên đường
Liễu dương biết thiếp đoạn đường này chăng"
Hai địa danh "doanh Liễu", "Tràng Dương" cho thấy người chồng đang ngày một xa dần trước mắt vợ. Và hình ảnh tương phản "quân trước" $><$ "kị sau" diễn tả sự gấp gáp của đoàn quân trên đường ra trận. Điều này cũng nhấn mạnh nỗi trống vắng của người vợ đang tăng dần bởi đoàn quân đã đưa chồng của nàng lên đường ra chiến trận. Thế rồi, chỉ còn lại nàng trên đoạn trường này. Nỗi đau đớn, trống vắng của người vợ dường như cũng được cả gió liễu cảm thông.
Và những câu tiếp theo là nỗi nhớ nhung vô bờ của người ở với người đi (người chinh phụ với người chinh phu):
"Tiếng địch thổi nghe chừng đồng vọng
Hàng cờ bay trong bóng phất phơ
Dấu chàng theo lớp mây đưa,
Thiếp nhìn rặng núi ngẩn ngơ nỗi nhà.
Chàng thì đi cõi xa mưa gió
Thiếp thì về buồng cũ gối chăn
Đoái trông theo đã cách ngăn
Tuôn màu mây biếc, trải ngần núi xanh
Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại
Bến Tiêu Dương thiếp hãy trông sang
Khói Tiêu Dương cách Hàm Dương
Cây Hàm Dương cách Tiêu Dương mấy trùng."
Trong lòng người vợ vẫn còn dư âm của đoàn quân với tiếng địch cùng hàng cờ bay phất phơ. Dù cảm thấy chồng ở gần nhưng thực tế chàng đã ở rất xa, dấu chân chàng dần biến mất theo sau lớp mây mù. Hình ảnh là sự tượng trưng cho khoảng cách đang ngày càng xa của đôi vợ chồng. Khoảng cách ấy quá dài, đã không thể vượt qua khiến người chinh phụ chỉ còn biết ngẩn ngơ ngồi nhìn rặng núi và lo cho chồng, cho nước nhà. Bằng nghệ thuật đối lập $-$ song hành giữa người đi và kẻ ở, thể hiện qua những hình ảnh như: "chàng đi" $><$ "thiếp về"; "cõi xa mưa gió" $><$ "buông cũ gối chăn". Qua đó cho thấy nỗi đau không chỉ về không gian mà còn cả tâm hồn. Và cả thiên nhiên cũng đau buồn theo nỗi buồn của người chinh phụ. Như đã nói bên trên, hai hình ảnh Hàm Dương và Tiêu Dương là biểu tượng cho khoảng cách xa vời vợi. Người chinh phụ nhớ người chinh phu và người chinh phu cũng vậy bởi "chàng" thì "ngoảnh lại" còn "thiếp" thì "trông sang". Hai hành động ấy là sự tương xứng cho thấy nỗi nhớ của cả hai dành cho đối phương vô cùng to lớn nhưng lại chẳng thể gặp được nhau, chỉ còn lại nỗi nhớ giao thoa với nhau. Nỗi nhớ thương ấy kéo dài, vô vọng, mờ ảo và vô cùng xa xôi, được thể hiện qua hình ảnh "khói Tiêu Dương" cách "cây Hàm Dương" mấy trùng.
Bài thơ với thể thơ song thất lục bát nhịp nhàng, uyển chuyển cùng những hình ảnh giàu tính biểu cảm và ngôn ngữ trang nhã kết hợp với biện pháp tả cảnh ngụ tình tài hoa đã cho người đọc thấy được bức tranh tâm trạng của người vợ trẻ có chồng phải ra đi vì chiến tranh. Qua từng lời thơ, ta cảm nhận được khát vọng được đoàn tụ, được hạnh phúc của những người phụ nữ trẻ trong xã hội phong kiến xưa nhưng đổi lại chỉ là sự trống vắng, hiu quạnh.
@LP
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
Bảng tin
