

Kính tặng hương hồn 10 cô gái ngã ba Đồng Lộc.
Cả tiểu đội ta đã về đông đủ
A trưởng (1) điểm danh - thiếu một - Cúc ơi!
Buổi trưa nay vẫn giòn tiếng em cười
Mà chiều tối - một bóng người đã vắng.
Trận đánh chiều nay vô cùng căng thẳng
Cuốc xẻng, sức người đọ với bom B
Nguyên tiểu đội mình nguyện trọn lời thề
“Mười (2) cô gái quyết giữ đường, thông tuyến”
Bom thù ném xuống trời rung, đất chuyển
Mười bóng hồng vẫn trụ vững ngày đêm.
Bởi thương em nên tay cứng - đá mềm
Bàn tay, cuốc xẻng bới tìm em suốt buổi.
Da em xanh, tóc mượt mà như suối
Tấm áo mỏng mấy lần rách - mảnh bom.
Bao người tìm em cuốc vẹt, xẻng mòn
Mà không thấy - Cúc ơi, em ở đâu!
Thương Mẹ quê nghèo, đồng trũng, ruộng sâu
Bài toán lớp năm em làm còn dở
Áo gối, khăn thêu - nỗi niềm thương nhớ
Quýt Sơn Bằng, sông Ngàn Phố chờ em.
Đồng đội tìm em từ chiều đến đêm
Cơm tối chưa ăn, đũa găm, bát úp
Mọi người khóc em, trời như đổ sụp
Khản tiếng gọi gào - Cúc ơi...Cúc ơi...
(1) A trưởng Võ Thị Tần.
(2) Mười cô gái ngã ba Đồng Lộc có tên (Cúc, Nhỏ, Xuân, Hà, Hường, Hợi, Rạng, Xuân, Xanh và Tần
phân tích bài thơ trên .(phân tích từng khổ rõ ràng )
Hãy luôn nhớ cảm ơn và vote 5*
nếu câu trả lời hữu ích nhé!

Có người từng nói: “Lịch sử không chỉ được viết bằng máu mà còn bằng nước mắt, bằng tình yêu thương và lòng biết ơn của những thế hệ sau.” Trong dòng chảy của lịch sử chống Mỹ cứu nước, ngã ba Đồng Lộc đã trở thành biểu tượng thiêng liêng của tuổi trẻ anh hùng và lòng yêu nước sắt son. Ở nơi khốc liệt ấy, mười cô gái thanh niên xung phong đã ngã xuống khi tuổi đời còn xanh, mang theo những ước mơ còn dang dở. Bài thơ “Kính tặng hương hồn 10 cô gái ngã ba Đồng Lộc” không chỉ là lời tri ân sâu sắc mà còn là nén hương tưởng niệm thiêng liêng gửi tới những linh hồn bất tử. Qua từng khổ thơ, người đọc như được sống lại những giờ phút bi tráng, được cảm nhận nỗi đau và lòng ngưỡng mộ trước sự hi sinh cao cả của các chị.
Bài thơ “Kính tặng hương hồn 10 cô gái ngã ba Đồng Lộc” là lời tưởng niệm xúc động dành cho mười nữ thanh niên xung phong đã anh dũng hy sinh trong một trận bom ác liệt tại ngã ba Đồng Lộc – nơi huyết mạch giao thông quan trọng của tuyến đường Trường Sơn trong kháng chiến chống Mỹ. Qua hình thức thơ tự do, người viết không chỉ tái hiện chân thực hiện thực chiến tranh khốc liệt mà còn khắc họa vẻ đẹp trong sáng, anh hùng và đầy nữ tính của những cô gái trẻ. Mạch cảm xúc trong bài thơ đi từ hiện thực mất mát, dồn nén đau thương, rồi dần lan tỏa thành nỗi tiếc thương day dứt và lòng biết ơn sâu nặng.
Nỗi đau như reo vào lòng người ngay từ những dòng thơ đầu:
“Cả tiểu đội ta đã về đông đủ
A trưởng điểm danh - thiếu một - Cúc ơi!
Buổi trưa nay vẫn giòn tiếng em cười
Mà chiều tối - một bóng người đã vắng.”
Bài thơ mở đầu bằng một khung cảnh quen thuộc nơi chiến trường: “điểm danh”. Nhưng cuộc điểm danh hôm ấy lại không trọn vẹn, bởi “thiếu một” – một người đã mãi mãi không về. Câu thơ “Cúc ơi!” như tiếng gọi thảng thốt, nghẹn ngào, kết tinh bao cảm xúc: sửng sốt, không tin, rồi chậm rãi hóa thành nỗi đau. Nghệ thuật đối lập “buổi trưa... tiếng cười” – “chiều tối... một bóng người vắng” nhấn mạnh sự mong manh của sự sống nơi chiến trường, đồng thời gợi một cú sốc tinh thần mạnh mẽ. Bút pháp tinh tế này mở đầu cho mạch cảm xúc tưởng niệm, để từ đó người đọc bị cuốn vào một hành trình trở về quá khứ – về trận bom định mệnh hôm ấy.
Cuộc chiến càng trở nên căng thẳng và dồn dập hơn. Chính trong thời khắc đó vang lên những lời thề quyết tử cho tổ quốc quyết sinh của những cô gái tuổi đôi mươi:
“Trận đánh chiều nay vô cùng căng thẳng
Cuốc xẻng, sức người đọ với bom B
Nguyên tiểu đội mình nguyện trọn lời thề
‘Mười cô gái quyết giữ đường, thông tuyến’”
Từ cảm xúc riêng tư, bài thơ chuyển mạch sang khung cảnh chiến trường với giọng thơ mạnh mẽ, giàu tính sử thi. Tác giả sử dụng biện pháp đối lập: “cuốc xẻng, sức người” đối chọi với “bom B” – thứ vũ khí tàn bạo của kẻ thù, để làm nổi bật sức mạnh ý chí, lòng quả cảm của những nữ chiến sĩ. Lời thề của tiểu đội không chỉ là cam kết trách nhiệm, mà là một tuyên ngôn sống – chết cho lý tưởng cao cả. Ẩn sau vẻ ngoài mảnh mai là tinh thần sắt đá, biến những thiếu nữ tuổi đôi mươi thành những “anh hùng không tên” nơi ngã ba lửa đạn.
“Bom thù ném xuống trời rung, đất chuyển
Mười bóng hồng vẫn trụ vững ngày đêm.
Bởi thương em nên tay cứng - đá mềm
Bàn tay, cuốc xẻng bới tìm em suốt buổi.”
Nếu khổ thơ trước miêu tả sự kiên trung bằng lời thề, thì khổ thơ này khắc họa trực diện hiện thực bom đạn với ngôn từ giàu hình ảnh và nhịp điệu dồn dập. Sự đối lập giữa thiên nhiên bị đảo lộn (“trời rung, đất chuyển”) và sự bất động đầy bản lĩnh của “mười bóng hồng” cho thấy vẻ đẹp phi thường ẩn trong con người rất đỗi bình dị. Đặc biệt, hình ảnh “tay cứng – đá mềm” là một hoán dụ cảm động: tình yêu thương đồng đội trở thành sức mạnh tinh thần làm dịu đi sự khắc nghiệt của chiến tranh. Câu thơ cuối diễn tả hành động “bới tìm em suốt buổi” như một ám ảnh, như một nghi lễ thiêng liêng của tình đồng chí, đồng đội giữa chiến địa.
Hình ảnh những cô chiến sĩ với vẻ đẹp yêu kiều và một tinh thần thép đã trở thành biểu tượng của những năm tháng kháng chiến hào hùng. Hình ảnh Cúc cũng chính là đại diện cho thế hệ những cô gái thanh niên xung phong đầy nhiệt huyết “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”:
“Da em xanh, tóc mượt mà như suối
Tấm áo mỏng mấy lần rách - mảnh bom.
Bao người tìm em cuốc vẹt, xẻng mòn
Mà không thấy - Cúc ơi, em ở đâu!”
Cô gái út Cúc – một nhân vật được khắc họa rất đỗi thân thương và nữ tính. Với phép ẩn dụ “tóc mượt mà như suối”, tác giả nâng vẻ đẹp em lên thành một nét đẹp thiên nhiên, tinh khiết. Thế nhưng, vẻ đẹp ấy lại bị bầm dập bởi chiến tranh – qua hình ảnh “tấm áo mỏng... rách – mảnh bom”..Câu hỏi tu từ “Cúc ơi, em ở đâu!” là một tiếng gọi từ đáy lòng, cũng là lời khắc khoải của hậu thế. Nỗi đau ấy không chỉ là mất mát của một người – mà là khoảng trống không thể lấp trong lòng người ở lại.
Những ước mơ còn đang dang dở- người con gái ấy sống mãi ở độ tuổi đẹp nhất:
“Thương Mẹ quê nghèo, đồng trũng, ruộng sâu
Bài toán lớp năm em làm còn dở
Áo gối, khăn thêu - nỗi niềm thương nhớ
Quýt Sơn Bằng, sông Ngàn Phố chờ em.”
Đây là đoạn thơ giàu tính nhân văn nhất toàn bài. Cúc hiện lên không phải như một chiến sĩ, mà là một cô bé học sinh lớp năm còn mang bao giấc mơ ngây thơ, còn nặng lòng với mẹ già, với “áo gối, khăn thêu”. Những chi tiết rất đời thường này lại khiến nỗi đau càng trở nên thấm thía. Tác giả đã khéo léo dùng nghệ thuật liệt kê xen với hình ảnh địa danh gần gũi (Sơn Bằng, Ngàn Phố), như một cách định vị ký ức, neo giữ linh hồn em nơi quê hương. Và từ đó, cái chết của em không còn là sự mất mát cá nhân, mà là một phần máu thịt của quê hương – dân tộc.
Đồng đội tìm em từ chiều đến đêm
Cơm tối chưa ăn, đũa găm, bát úp
Mọi người khóc em, trời như đổ sụp
Khản tiếng gọi gào - Cúc ơi...Cúc ơi...”
Khổ thơ cuối là cao trào của toàn bài – nơi cảm xúc được đẩy đến tận cùng. Hành động “đũa găm, bát úp” là hình ảnh biểu tượng cho sự ngưng đọng vì mất mát, một bữa cơm không thể trọn vẹn vì người đồng đội thân thương đã không còn. Câu thơ “trời như đổ sụp” không chỉ là miêu tả hiện tượng thiên nhiên, mà là sự phản chiếu của tâm trạng con người. Và tiếng gọi “Cúc ơi...” lặp đi lặp lại như nén nhang lòng, như lời tiễn biệt – vừa xót xa, vừa thiêng liêng. Đó không còn là tiếng gọi của riêng người viết, mà là tiếng gọi chung của cả dân tộc hướng về những người con gái bất tử.
Bài thơ là bản anh hùng ca về những cô gái Đồng Lộc – tiêu biểu cho thế hệ thanh niên Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ: anh dũng, kiên cường, sống đẹp và hy sinh cao cả. Đồng thời, bài thơ cũng là khúc tưởng niệm đầy xúc động về sự sống – cái chết, tuổi trẻ – chiến tranh, lòng yêu thương – trách nhiệm với Tổ quốc. Tác phẩm không chỉ hấp dẫn về mặt nội dung mà còn đặc sắc về nghệ thuật. Với việc sử dụng hình thức thơ tự do giàu chất tự sự và trữ tình, giọng điệu chân thành, ngôn ngữ mộc mạc mà xúc động. Các hình ảnh thơ giản dị nhưng giàu sức gợi tả và biểu cảm. Nhịp điệu linh hoạt góp phần dẫn dắt mạch cảm xúc liền mạch, chân thực.
Kính tặng hương hồn 10 cô gái ngã ba Đồng Lộc” là một bài thơ thấm đẫm nước mắt và lòng biết ơn. Không chỉ là bản anh hùng ca về sự hi sinh, bài thơ còn là lời nhắc nhở thế hệ hôm nay về cái giá của độc lập, tự do. Những cô gái năm xưa tuy đã về với đất mẹ, nhưng tinh thần của họ, tình yêu nước, lòng quả cảm của họ sẽ sống mãi trong tâm hồn dân tộc. Và như thế, mỗi lần nhắc đến Đồng Lộc, ta lại thấy lòng mình lặng đi – để nhớ, để thương, và để sống xứng đáng hơn.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?

Bạn tham khảo:
Chiến tranh đã lùi xa, nhưng những trang sử hào hùng và bi tráng của dân tộc Việt Nam vẫn còn sống mãi trong trái tim mỗi người. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, biết bao người con đã ngã xuống khi tuổi đời còn rất trẻ, để đánh đổi lấy hòa bình cho Tổ quốc. Một trong những biểu tượng bất tử của tinh thần dũng cảm và sự hy sinh cao cả chính là 10 cô gái thanh niên xung phong tại Ngã ba Đồng Lộc. Bài thơ "Kính tặng hương hồn 10 cô gái Ngã ba Đồng Lộc" không chỉ là lời tri ân sâu sắc, mà còn là một khúc tưởng niệm xúc động, khắc họa hình ảnh những cô gái anh hùng với vẻ đẹp bình dị mà cao cả, khiến người đọc không khỏi nghẹn ngào, xúc động và thêm tự hào về quá khứ oanh liệt của dân tộc.
Mở đầu bài thơ, hình ảnh tiểu đội được gợi lên trong một khoảnh khắc đầy ám ảnh:
Cả tiểu đội ta đã về đông đủ
A trưởng điểm danh – thiếu một – Cúc ơi!
Buổi trưa nay vẫn giòn tiếng em cười
Mà chiều tối – một bóng người đã vắng
Từ không khí ấm áp, đầy tiếng cười, bài thơ chuyển sang nốt trầm buốt giá của sự mất mát. Cái tên "Cúc" vang lên đau đáu trong lời điểm danh, như vết cứa vào trái tim người ở lại. Tác giả đã sử dụng thủ pháp tương phản thời gian và không khí ("buổi trưa giòn tiếng cười" -"chiều tối vắng bóng người") để khắc họa nỗi đau đột ngột, ám ảnh của sự hy sinh.
Tiếp theo, khổ thơ thứ hai khắc họa tinh thần chiến đấu ngoan cường của các cô gái:
Trận đánh chiều nay vô cùng căng thẳng
Cuốc xẻng, sức người đọ với bom B
Nguyên tiểu đội mình nguyện trọn lời thề
‘Mười cô gái quyết giữ đường, thông tuyến
Dù phải đối mặt với bom đạn ác liệt, họ vẫn vững vàng giữ lời thề son sắt. Qua hình ảnh đối lập giữa "cuốc xẻng, sức người" và "bom B", người đọc cảm nhận rõ sự chênh lệch về lực lượng, qua đó càng thêm khâm phục ý chí kiên cường, bất khuất của các cô gái tuổi đời mười tám, đôi mươi.
Khổ thơ thứ ba là sự hòa quyện giữa khốc liệt của chiến trường và tình đồng đội sâu nặng:
Bom thù ném xuống trời rung, đất chuyển
Mười bóng hồng vẫn trụ vững ngày đêm.
Bởi thương em nên tay cứng – đá mềm
Bàn tay, cuốc xẻng bới tìm em suốt buổi.”
Hình ảnh "tay cứng – đá mềm" là ẩn dụ đầy cảm động cho nghị lực phi thường được hun đúc từ tình đồng đội thiêng liêng. Cả tiểu đội như hóa đá trong cuộc tìm kiếm Cúc một hành trình chan chứa nước mắt và lòng xót thương vô hạn.
Khổ thơ thứ tư lại dịu dàng, trong trẻo nhưng cũng đầy đau xót:
Da em xanh, tóc mượt mà như suối
Tấm áo mỏng mấy lần rách – mảnh bom.
Bao người tìm em cuốc vẹt, xẻng mòn
Mà không thấy – Cúc ơi, em ở đâu!”
Vẻ đẹp của Cúc hiện lên như một biểu tượng trong trẻo, nữ tính giữa chiến trường khốc liệt. Câu hỏi tu từ ở cuối khổ vang lên đầy ám ảnh, như một tiếng gọi từ trái tim người đồng đội không chỉ gọi Cúc, mà gọi cả một phần ký ức đau thương không thể xóa nhòa.
Những khổ thơ tiếp theo như một cuốn phim quay chậm về ký ức, về quê hương, về tuổi thơ chưa trọn:
Thương Mẹ quê nghèo, đồng trũng, ruộng sâu
Bài toán lớp năm em làm còn dở
Áo gối, khăn thêu – nỗi niềm thương nhớ
Quýt Sơn Bằng, sông Ngàn Phố chờ em.
Những chi tiết đời thường giản dị chiếc khăn thêu, bài toán dở, quả quýt quê nhà được nhắc lại như để nói hộ nỗi tiếc nuối vô hạn cho một cuộc đời non trẻ chưa kịp sống trọn. Không chỉ mất mát, đó còn là giấc mơ dang dở của một thế hệ thanh xuân đã hóa thành bất tử.
Khổ kết mang theo đỉnh điểm của bi thương:
Đồng đội tìm em từ chiều đến đêm
Cơm tối chưa ăn, đũa găm, bát úp
Mọi người khóc em, trời như đổ sụp
Khản tiếng gọi gào – Cúc ơi… Cúc ơi…
Hình ảnh "đũa găm, bát úp" là biểu tượng lặng lẽ mà thấm thía cho sự hy sinh chưa kịp nguôi ngoai. Tiếng gọi Cúc khản đặc giữa đất trời như một lời tiễn biệt đớn đau, khắc sâu trong lòng người đọc một nỗi mất mát không gì bù đắp nổi.
Tóm lại, bằng giọng thơ mộc mạc nhưng giàu cảm xúc, kết hợp với những hình ảnh chân thực, ẩn dụ sâu sắc và thủ pháp đối lập đầy hiệu quả, bài thơ không chỉ là lời tưởng niệm xúc động mà còn là khúc tráng ca về tuổi trẻ Việt Nam trong chiến tranh những con người đã sống và chết vì lý tưởng cao đẹp, để hôm nay đất nước được thanh bình. Hình ảnh cô gái Cúc không chỉ đại diện cho 10 nữ thanh niên xung phong ngã xuống ở Ngã ba Đồng Lộc, mà còn là biểu tượng bất tử cho thế hệ thanh xuân dũng cảm, thầm lặng mà vĩ đại.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?

Bảng tin