

I. ĐỌC HIỂU (6,0 điểm) Đọc văn bản: CƠM MÙI KHÓI BẾP Bốn năm từ ngày lấy vợ, Tết này anh mới đưa được cả vợ và con về quê. Từ Sài Gòn về miền Trung không hẳn quá xa, nhưng vì có đứa con nhỏ nên chuyện đi lại khó khăn. Mấy lần trước anh chỉ về một mình, dăm hôm lại trở vào. Lần này cả nhà mới được về quê, cho đứa con ăn Tết quê nội lần đầu. […] Hôm sau bà lọ mọ dậy từ lúc trời chưa hửng sáng, nhóm lửa rơm, bắc nồi cơm. Thằng cháu nội ba tuổi chạy xuống thấy khói bếp bốc ngùn ngùn, khiếp quá hét toáng lên: “Cháy nhà”. Anh chị đang ngủ giật mình vùng dậy. Anh bảo nhà đã có bếp gas, mẹ nấu gì thứ rơm đó nữa cho cực. Bà cười: “Tụi bây ăn cơm nồi cơm điện thành phố rồi, về quê mẹ nấu cơm lửa rơm cho thơm mùi đồng mùi rạ. Mà cơm nấu rơm mới có miếng cháy ăn giòn. Mấy hồi anh nhỏ, bữa ăn không có miếng cơm cháy là giãy nãy lên bướng bỉnh chẳng chịu ăn. Nhớ không.” Trời rạng tưng tửng sáng, thấy khói bay lên lèn qua mái tranh, anh chợt bùi ngùi. Nhớ ngày xưa còn nhỏ, sáng sớm anh chạy xuống bếp nằm cuộn trong lòng mẹ ngủ nướng thêm một lúc. Thức giấc giở nắp nồi ngửi mùi cơm. Rồi lấy đũa xới hết cơm lên để lột miếng chảy ở đáy rồi ăn trước. Lớn lên vào Sài Gòn lập nghiệp, cưới vợ sinh con ở đấy, xa cái bếp quê dần thành quên. Với lại ở trong đó, đâu có mấy ai ăn sáng ở nhà. Cái bụng cũng “lười” và “yếu” đi, sáng phải bún hoặc cháo mới nuốt nổi. Giờ về thấy cơm, thèm thì thèm thật nhưng ăn chi vô. Cô con dâu bảo: “Mẹ bày ra nấu bữa sáng làm gì cho cực. Chúng con ra quán ăn miếng là rồi việc”. “Bây nói chi lạ. Ăn uống phải đàng hoàng chớ. Bữa sáng là quan trọng lắm. Không ai thương bằng cơm thương đâu con. Ăn cơm chắc bụng no lâu. Mấy cái thứ bún cháo nước õng ệu, chỉ nhoáng là đói lại liền à.” – Bà vừa san cơm ra chén vừa nói. Ba chén cơm trắng, đĩa cá đồng kho nghệ. Anh háy mắt qua vợ, ý bảo ăn đi, ăn lấy lòng mẹ một miếng. Chị lại háy mắt qua anh lắc đầu, có mà sức Thánh Gióng mới nuốt trôi. Thằng cu con nhìn chằm chằm chén cơm. Cuối cùng chỉ có anh trệu trạo làm được ba miếng, như là ăn tượng trưng cho mỗi người một miếng. Tranh thủ lúc mẹ đi ra giếng, anh lùa cả ba chén cơm trắng vào lại nồiSáng hôm sau bà lại dậy sớm. Lại nhóm bếp rơm nấu cơm. Xong bữa nồi cơm không vơi được là mấy, vẫn đầy như lòng mẹ. Anh gắng ăn được nửa chén. Chén lòng san đôi cho mẹ cho vợ. Anh dối mẹ chở vợ con đi xem chợ Tết, đi thăm thú làng quê, thực chất là để ghé quán cho vợ con ăn bún ăn cháo. Anh tự nhủ sáng mai phải thức sớm ngồi nấu bếp với mẹ như xưa. Tự nhủ sáng mai phải ăn chén cơm đầy với mẹ, nhai một miếng cơm cháy giòn thơm. Nhưng lâu ngày giờ về quê gặp lại bạn bè người thân, chỗ này mời chén rượu, chỗ kia mời bữa cơm. Cơm rượu quê hàn huyên câu chuyện ngày dài tới tận khuya. Hôm sau thức dậy đã sáng trọt sáng trời, cổ họng khô khốc không ăn nổi cơm dẻo, huống hồ là miếng cơm cháy. Chưa hết Tết, mới ngày mùng bốn anh lại phải đưa vợ con vào Sài Gòn. Bà mẹ dậy sớm làm gà, nấu cơm. Vẫn một mình bà cặm cụi với cái bếp. Bà xúc đầy cơm vào chiếc ca mèn. Gà luộc cho vào hộp đựng. “Bây đem lên xe mà ăn. Cơm dọc đường dọc sá không ngon đâu”. Con cháu lên taxi rồi bà còn dặn theo: “Vào trong nhớ ăn uống đàng hoàng nghe bây. Đừng bỏ bữa sáng. Không ai thương bằng cơm thương”. Vào tới Sài Gòn ca mèn cơm vẫn còn một nửa. Vợ định đem đi đổ. Anh can, bảo để đấy, phơi khô cất giữ làm kỷ niệm. Qua tháng ba nghe tin mẹ bệnh, anh tức tốc về nhà. Nằm trên giường, gặp con, câu đầu tiên bà hỏi: “Con ăn chi chưa. Mẹ không bắc cơm được. Thôi ra đầu chợ ăn tạm. Bữa nào khỏe mẹ nấu cơm cho ăn. Tội nghiệp”. Nhưng mẹ không khỏe nữa, yếu dần, được thêm hai bữa thì nhắm mắt. Đưa mẹ ra đồng xong, về nhà nhìn chén cơm trắng đặt trên bàn thờ, anh thấy nhói lòng. Ân hận. Thế là hết cơ hội được ăn với mẹ một chén cơm sáng thật đầy, để nghe mẹ nói câu “Không ai thương bằng cơm thương”. Tiếc nuối. Thèm miếng cơm cháy mẹ nấu quá. Giòn và thơm, mùi hương đồng mùi nước quê, cả mùi khói bếp. Chỉ có mẹ mới nấu được miếng cơm cháy ngon như thế. Hôm lên đường vào Sài Gòn, anh dậy sớm nấu chén cơm đặt lên bàn thờ mẹ. Anh tự mình vo gạo, tự mình nhóm bếp rơm. Loay hoay một hồi. Bếp nhà đầy khói. Và khói… (Theo Hoàng Công Danh, Chuyến tàu vé ngắn, NXB Trẻ, trang 49 – 54 2016, TPHCM)
Câu 1 xác định ngôi kể
Câu 2 tìm những từ cụm từ thể hiện tâm trạng của nhân vật anh sau khi người mẹ mất
Câu 3 phân tích hiệu quả biện pháp tu từ ẩn dụ trong câu nói chén lòng san đôi cho mẹ cho vợ
câu4 hãy chia sẻ suy nghĩ của em về chi tiết cuối truyện Hôm lên đường vào Sài Gòn, anh dậy sớm nấu chén cơm đặt lên bàn thờ mẹ. Anh tự mình vo gạo, tự mình nhóm bếp rơm. Loay hoay một hồi. Bếp nhà đầy khói. Và khói…
Câu 5 qua đoạn trích trên em hãy lí giải một thông điệp mà em tâm đắc nhất
Hãy luôn nhớ cảm ơn và vote 5*
nếu câu trả lời hữu ích nhé!

Đây là câu trả lời đã được xác thực
Câu trả lời được xác thực chứa thông tin chính xác và đáng tin cậy, được xác nhận hoặc trả lời bởi các chuyên gia, giáo viên hàng đầu của chúng tôi.
Câu 1:
Ngôi kể thứ 3
Dấu hiệu nhận biết:
+ Người kể ẩn danh, không có thông tin, người kể không xưng "tôi"
+ Sử dụng các đại từ nhân xưng "anh, chị, bà" để gọi nhân vật chính
+ Người kể là người không trực tiếp tham gia vào câu chuyện mà chỉ đứng bên ngoài quan sát và miêu tả tâm trạng tình cảm của nhân vật một cách khách quan.
Câu 2:
Những từ, cụm từ thể hiện tâm trạng của nhân vật anh sua khi mẹ mất:
+ anh thấy nhói lòng
+ ân hận
+ tiếc nuối
+ thèm miếng cơm cháy mẹ nấu quá => nỗi nhớ trào dâng
+ Chỉ có mẹ mới nấu được cơm cháy ngon như thế => nhớ mẹ nhớ về những món ăn ngon mẹ nấu
=> Qua những cụm từ đã làm nổi bật sự day dứt, hối tiếc và nỗi nhớ thương sâu sắc cảu nhân vật người con dành cho người mẹ đã khuất, đặc biệt là nỗi ân hận vì không kịp cùng mẹ ăn một bữa cơm trọn vẹn, đủ đầy.
Câu 3:
Biện pháp tư từ được sử dụng: ẩn dụ " chén lòng"- tấm lòng tình yêu thương xuất phát từ trái tim chân thành của người con, "san đôi" - chia sẻ tình yêu thương sự quan tâm dành cho hai người phụ nữ đặc biệt quan trọng nhất của cuộc đời là mẹ và vợ
Tác dụng:
+ Giúp cho câu văn thêm hay, sinh động, giùa sức gợi cảm, tăng hiệu quả diễn đạt lôi cuốn hấp dẫn người đọc
+ Với việc sử dụng biện pháp tu từ ẩn dụ nhằm nhấn mạnh tình cảm chân thành thiêng liêng sâu nặng của người con. Đằng sau đó là vực tối của sự giằng xé trong lòng người nhân vật "anh" khi phải cân bằng giữa đạo hiếu bổn phận làm con và tình nghĩa vợ chồng. Qua đó chúng ta thấy rằng tình cảm gia đình vô cùng thiêng liêng nhưng để để hòa được các mối quan hệ lại là điều chẳng dễ dàng, mối quan hệ gia đình cũng có nhiều phức tạp.
Câu 4:
Chi tiết cuối truyện đã gợi nên nỗi đau âm thầm và sự tiếc nuối khôn nguôi của người con sau khi mẹ mất. Những hành động của nhân vật như "tự vo gạo, nhóm bếp rơm" là cách người con tưởng nhớ và bù đắp những điều mà trước kia chưa kịp làm khi mẹ còn sống. Hay đó cũng là sự thương nhớ đến mẹ. Tuy nhiên tất cả dường như đã quá muộn màng. Hình ảnh "khói' là ẩn dụ cho nỗi buồn, sự mờ nhòa của kỷ niệm sự mất mác không thể diễn tả thành lời. Kết thúc câu chuyện để lại những dư âm sâu sắc khiến người đọc khong khỏi xúc động và suy ngẫm về tình mẫu tử.
Câu 5:
Thông điệp sâu sắc từ văn bản: Hãy trân trọng những phút giây được sống bên mẹ, yêu thương và chia sẻ với mẹ khi còn có thể. Bởi lẽ thời gian là vô hạn nhưng cuộc đời của mỗi người là hữu hạn. Mẹ chúng ta rồi sẽ già đi theo năm tháng và sẽ rời ra chúng ta. Đó là quy luật tất yếu của tự nhiên mà chúng ta không thể thay đổi. Vì vậy điều mà chúng ta có thể làm để không phải hối tiếc là hãy trân trọng những giây phút khi có mẹ ở bên, hãy quan tâm và nói yêu mẹ nhiều hơn mỗi ngày để mẹ cảm nhận được sự hạnh phúc và ấm áp. Hãy sống trọn chữ hiếu để đến khi nhìn lại chúng ta mỉm cười và cảm ơn bản thân vì đã có cơ hội được ở bên và dành cho mẹ những điều tuyệt vời vô giá nhất.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
![]()
Bảng tin
