

Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) làm rõ cảm xúc của chủ thể trữ tình trong đoạn thơ sau:
Ngôi sao nhớ ai mà sao lấp lánh
Soi sáng đường chiến sĩ giữa đèo mây
Ngọn lửa nhớ ai mà hồng đêm lạnh
Sưởi ấm lòng chiến sĩ dưới ngàn cây
Anh yêu em như anh yêu đất
Vất và đau thương tươi thắm vô ngần Anh nhớ em mỗi bước đường anh bước
Mỗi tối anh nằm mỗi miếng anh ăn.
(Trích Nhớ, Nguyễn Đình Thi, Tuyển tác phẩm văn học,
Nhà in Bộ LĐTBXH, 2001)
Chú thích: Nguyễn Đình Thi quê ở Hà Nội nhưng sinh ở Luang Prabang (Lào). Đến năm tuổi, Nguyễn Đình Thi theo bố mẹ trở về nước và đi học ở Hà Nội rồi Hải Phòng. Từ nhỏ, Nguyễn Đình Thi đã nổi tiếng thông minh, học rất giỏi tất cả các môn, đặc biệt là môn Triết. Là trí thức yêu nước, Nguyễn Đình Thi đã sớm trở thành người chiến sĩ cách mạng trung kiên. Ông đảm nhận những cương vị quan trọng trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật: Tổng thư ký Hội Văn nghệ, Tổng thư ký Hội Nhà văn, Chủ tịch Uỷ ban Toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học -Nghệ thuật Việt Nam. Nguyễn Đình Thi là người hoạt động chính trị, đã từng là sĩ quan quân đội, nhưng nhắc đến ông là mọi người nghĩ đến một nghệ sĩ đa tài. Ông sáng tác nhạc, làm thơ, viết tiểu thuyết, kịch, tiểu luận phê bình. Ở lĩnh vực nào ông cũng có những đóng góp đáng trân trọng.
Nguyễn Đình Thi là nhà thơ chiến sĩ tiêu biểu của nền văn học cách mạng Việt Nam. Trong bài thơ “Nhớ”, ông đã viết nên một bản tình ca giữa khói lửa chiến tranh, nơi người lính không chỉ chiến đấu vì Tổ quốc mà còn mang trong mình tình yêu tha thiết với người con gái nơi hậu phương.
Mở đầu đoạn thơ là những hình ảnh thiên nhiên gần gũi “ngôi sao”, “ngọn lửa” gợi sự tĩnh lặng, cô quạnh giữa đêm rừng. Nhưng dưới ánh nhìn của người lính, mọi vật như cũng chan chứa nỗi nhớ. Câu hỏi tu từ “Ngôi sao nhớ ai?”, “Ngọn lửa nhớ ai?” là cách tác giả nhân hóa thiên nhiên để diễn tả nỗi lòng của người chiến sĩ. Đó là nỗi nhớ người yêu, nhớ quê hương một nỗi nhớ da diết, cháy bỏng mà vẫn đầy lãng mạn và cao thượng.
Nỗi nhớ ấy không yếu đuối, bi lụy mà trở thành nguồn động lực tinh thần giúp người lính vững vàng trước gian khổ. Người lính đã ví tình yêu dành cho người con gái với tình yêu quê hương, đất nước. Đất là hình tượng thiêng liêng, mang ý nghĩa của sự gắn bó bền chặt, thủy chung. Như vậy, tình yêu trong thơ không tách rời lý tưởng, mà hòa quyện, nâng đỡ nhau – đó là tình yêu đẹp và đầy nhân văn.
Những sinh hoạt thường nhật, nỗi nhớ ấy thường trực, bình dị mà sâu lắng. Nó khắc họa một người lính rất “người”, rất đời, nhưng đồng thời cũng rất lý tưởng: sống có trách nhiệm, có tình yêu trong sáng và luôn biết nâng niu những điều giản dị nhất của cuộc đời.
Dẫn chứng từ cuộc sống cũng cho thấy, biết bao người lính trong chiến tranh đã sống với tình yêu cao đẹp như thế. Chúng ta có thể nhắc đến chuyện tình cảm động của anh bộ đội Trường Sơn năm xưa - những người chấp nhận xa người yêu hàng năm trời, chỉ giữ gìn những tấm ảnh, vài dòng thư tay, để tiếp thêm sức mạnh vượt qua mưa bom, bão đạn. Ngày nay, trong cuộc sống hiện đại, hình ảnh người lính vẫn tiếp tục truyền cảm hứng. Những chiến sĩ biên phòng nơi đảo xa hay vùng cao biên giới vẫn luôn nhắc đến gia đình, người yêu như một phần của sức mạnh tinh thần, giúp họ hoàn thành nhiệm vụ.
Đoạn thơ là một khúc trữ tình sâu lắng và xúc động, thể hiện rõ tình yêu đất nước hòa quyện với tình yêu lứa đôi của người lính cách mạng. Qua đó, Nguyễn Đình Thi không chỉ ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn của người chiến sĩ mà còn gửi gắm thông điệp: tình yêu, dù trong chiến tranh hay hòa bình, luôn là sức mạnh to lớn giúp con người vượt qua mọi gian lao. Đó chính là chất “nhớ” một vẻ đẹp tinh thần bất tử của dân tộc Việt Nam.
Bảng tin