

viết bài văn nêu cảm nghĩ của em về bài thơ ngọn đèn đứng gác của Chính Hữu
(cảm xúc bài thơ là niềm tự hào,xúc động trước tình cảm của nhân dân với những người lính , với miền nam,với đất nước)
Trên đường ta đi đánh giặc
Ta về nam hay ta lên bắc,
Ở đâu
Cũng gặp
Những ngọn đèn dầu
Chong mắt
Đêm thâu
Những ngọn đèn không bao giờ nhắm mắt
Như những tâm hồn không bao giờ biết tắt,
Như miền Nam
Hai mươi năm
Không đêm nào ngủ được,
Như cả nước
Với miền Nam
Đêm nào cũng thức
Soi cho ta đi
Đánh trận trường kì
Đèn ta thắp niềm vui theo dõi
Đèn ta thắp những lời kêu gọi.
Đi nhanh đi nhanh
Chiến trường đã giục
Đầy núi đầy sông
Đèn ta đã mọc.
Trong gió trong mưa
Ngọn đèn đứng gốc
Cho thắng lợi, nối theo nhau
Đang hành quân đi lên phía trước.
Hãy luôn nhớ cảm ơn và vote 5*
nếu câu trả lời hữu ích nhé!
Bài làm
Bài thơ "Ngọn đèn đứng gác" của Chính Hữu đã để lại trong em những cảm xúc sâu sắc và khó tả. Bài thơ không chỉ là một bức tranh về những ngọn đèn dầu lặng lẽ mà còn là biểu tượng cho tình cảm thiêng liêng, sự gắn bó sâu nặng giữa nhân dân với người lính, với miền Nam và với cả đất nước trong những năm tháng chiến tranh gian khổ.
Hình ảnh ngọn đèn dầu được Chính Hữu khắc họa một cách giản dị nhưng vô cùng ý nghĩa. Ngọn đèn không chỉ là vật chiếu sáng đơn thuần mà đã trở thành người bạn đồng hành, là nguồn động viên tinh thần to lớn cho những người lính trên mọi nẻo đường Tổ quốc:"Trên đường ta đi đánh giặc Ta về nam hay ta lên bắc, Ở đâu Cũng gặp Những ngọn đèn dầu Chong mắt Đêm thâu"
Những ngọn đèn dầu "chong mắt đêm thâu" như những người lính thầm lặng, kiên cường bám trụ, dõi theo từng bước chân của các chiến sĩ. Ánh sáng của đèn không chỉ xua tan bóng tối mà còn thắp lên niềm tin, hy vọng vào một ngày mai tươi sáng. Em cảm thấy vô cùng tự hào về những ngọn đèn, về những con người đã hy sinh thầm lặng cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Bài thơ khiến em xúc động sâu sắc trước tình cảm của nhân dân dành cho người lính, cho miền Nam ruột thịt và cho cả đất nước. Ngọn đèn dầu không bao giờ nhắm mắt, cũng như:"Những tâm hồn không bao giờ biết tắt, Như miền Nam Hai mươi năm Không đêm nào ngủ được, Như cả nước Với miền Nam Đêm nào cũng thức Soi cho ta đi Đánh trận trường kì"
Tình cảm ấy được thể hiện qua sự thấu hiểu, sẻ chia những khó khăn, gian khổ mà miền Nam và cả nước đang gánh chịu. Ngọn đèn trở thành biểu tượng của sự đoàn kết, của ý chí quyết tâm đánh thắng giặc ngoại xâm. Em cảm nhận được sự ấm áp, sự tin tưởng mà nhân dân dành cho những người lính, những người con ưu tú của dân tộc.
"Ngọn đèn đứng gác" không chỉ là biểu tượng của tình yêu thương, sự sẻ chia mà còn là biểu tượng của ý chí chiến thắng. Ánh sáng của đèn soi đường cho quân ta:"Đi nhanh đi nhanh Chiến trường đã giục Đầy núi đầy sông Đèn ta đã mọc."
Trong mọi hoàn cảnh, ngọn đèn vẫn luôn "đứng gác", tiếp thêm sức mạnh cho những người lính:"Trong gió trong mưa Ngọn đèn đứng gốc Cho thắng lợi, nối theo nhau Đang hành quân đi lên phía trước."Em cảm thấy tràn đầy niềm tin vào tương lai tươi sáng của đất nước khi đọc những vần thơ này. Bài thơ đã khơi dậy trong em lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc và ý thức trách nhiệm của một người công dân đối với quê hương.
"Ngọn đèn đứng gác" là một bài thơ hay, giàu cảm xúc và ý nghĩa. Bài thơ đã giúp em hiểu sâu sắc hơn về tình cảm của nhân dân đối với người lính, với miền Nam và với đất nước trong những năm tháng chiến tranh. Em sẽ luôn ghi nhớ những vần thơ này và sống xứng đáng với những hy sinh cao cả của các thế hệ cha anh.
#ᴇuԍᴇɴᴀ
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?

Bài thơ "Ngọn đèn đứng gác" của nhà thơ Chính Hữu là một tác phẩm giàu cảm xúc, khắc họa sinh động hình ảnh những ngọn đèn dầu - biểu tượng của tinh thần bất khuất, sự kiên cường của nhân dân và người lính Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm. Đọc bài thơ, em không khỏi xúc động và tự hào về tình cảm sâu nặng của nhân dân dành cho những người lính, cho miền Nam ruột thịt và cho cả đất nước.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh quen thuộc của những ngọn đèn dầu trên khắp mọi miền đất nước: "Trên đường ta đi đánh giặc Ta về nam hay ta lên bắc, Ở đâu Cũng gặp Những ngọn đèn dầu Chong mắt Đêm thâu." Ngọn đèn ở đây không chỉ là ánh sáng vật lý mà còn là ánh sáng của niềm tin, của hy vọng. Dù ở Bắc hay Nam, dù trên đường ra trận hay nơi hậu phương, người lính luôn bắt gặp hình ảnh những ngọn đèn thức cùng họ, đồng hành trong suốt những đêm dài hành quân. Đó là ánh sáng của lòng người, của sự gắn bó keo sơn giữa nhân dân và người lính, tiếp thêm sức mạnh cho những bước chân ra trận.
Tác giả tiếp tục khắc họa sâu sắc ý nghĩa của những ngọn đèn bằng những liên tưởng đầy cảm xúc: "Những ngọn đèn không bao giờ nhắm mắt Như những tâm hồn không bao giờ biết tắt, Như miền Nam Hai mươi năm Không đêm nào ngủ được, Như cả nước Với miền Nam Đêm nào cũng thức." Ngọn đèn bỗng hóa thành biểu tượng của tinh thần quật cường, không bao giờ khuất phục. Miền Nam thân yêu - nơi đang ngày đêm chịu bao đau thương mất mát, suốt hai mươi năm chưa từng có một giấc ngủ yên lành. Nhưng miền Nam không đơn độc, bởi cả nước luôn thức cùng, luôn hướng về miền Nam với tình yêu thương, chia sẻ và quyết tâm giành độc lập. Chính Hữu đã dùng hình ảnh ngọn đèn để diễn tả một cách nhẹ nhàng nhưng vô cùng mạnh mẽ tình đoàn kết keo sơn của dân tộc Việt Nam.
Phần cuối bài thơ, ngọn đèn càng trở nên kiên cường, mãnh liệt: "Soi cho ta đi Đánh trận trường kì Đèn ta thắp niềm vui theo dõi Đèn ta thắp những lời kêu gọi. Đi nhanh đi nhanh Chiến trường đã giục Đầy núi đầy sông Đèn ta đã mọc. Trong gió trong mưa Ngọn đèn đứng gốc Cho thắng lợi, nối theo nhau Đang hành quân đi lên phía trước." Hình ảnh "ngọn đèn đứng gác" hiện lên đầy sức sống, mang tinh thần của người lính kiên gan, bền bỉ. Ngọn đèn không chỉ soi sáng đường đi mà còn thắp lên niềm tin chiến thắng. Dù trong gió mưa bão bùng, ngọn đèn vẫn đứng vững, không tắt - như chính những người lính không ngại gian khổ, hy sinh, tiến lên vì miền Nam, vì Tổ quốc. Đèn còn là lời kêu gọi, là mệnh lệnh từ trái tim thúc giục mọi người cùng ra trận, nối tiếp nhau trong hành trình giải phóng dân tộc.
Bài thơ khép lại, nhưng dư âm của nó vẫn còn vang vọng trong lòng người đọc. Em thực sự xúc động và tự hào về hình ảnh ngọn đèn - biểu tượng của lòng yêu nước, của tình nghĩa đồng bào và của ý chí kiên cường bất khuất. Qua bài thơ, em càng hiểu thêm về tinh thần đoàn kết, tình cảm keo sơn giữa nhân dân và người lính, giữa hậu phương và tiền tuyến. Đó chính là nguồn sức mạnh vô tận giúp dân tộc ta vượt qua mọi thử thách, đi đến thắng lợi cuối cùng.
"Ngọn đèn đứng gác" không chỉ là một bài thơ ca ngợi người lính hay nhân dân, mà còn là bài ca bất diệt về tinh thần dân tộc. Chính Hữu đã thành công khắc họa một biểu tượng đẹp đẽ, vững bền trong lòng mỗi người con đất Việt.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?

Văn học không chỉ là tấm gương phản chiếu hiện thực mà còn là ngọn lửa âm ỉ sưởi ấm tâm hồn người đọc qua năm tháng. Một tác phẩm thực sự có giá trị khi nó đánh thức trong lòng người đọc những rung cảm sâu xa, lay động những tầng sâu ý thức về con người, cuộc sống và đất nước. Bài thơ "Ngọn đèn đứng gác" của Chính Hữu là một minh chứng tiêu biểu. Với hình ảnh ngọn đèn dầu đầy chất thơ và chất đời, nhà thơ đã khắc họa sinh động tình cảm của nhân dân với người lính, với miền Nam với cả dân tộc đang kháng chiến trong gian khó.
Bài thơ mở ra với một hình ảnh gần gũi và thân thuộc:
"Trên đường ta đi đánh giặc
Ta về nam hay ta lên bắc,
Ở đâu
Cũng gặp
Những ngọn đèn dầu
Chong mắt
Đêm thâu"
Người lính trên đường hành quân đi khắp mọi miền đất nước, nơi nào cũng bắt gặp ánh đèn dầu thức trắng đêm. Đó không chỉ là ánh đèn đơn thuần mà là biểu tượng của sự tỉnh thức, của lòng tin yêu và dõi theo của người dân với cuộc kháng chiến. Chính hình ảnh “chong mắt đêm thâu” vừa giàu chất tạo hình, vừa giàu giá trị biểu cảm thể hiện tấm lòng thao thức, trằn trọc, đau đáu vì đất nước. Từ đó, ngọn đèn dầu trở thành nhịp nối vô hình nhưng bền chặt giữa hậu phương và tiền tuyến.
Chính Hữu tiếp tục mở rộng ý nghĩa biểu tượng của ánh sáng ấy, so sánh ngọn đèn với tâm hồn của con người - những tâm hồn không bao giờ biết tắt:
“Những ngọn đèn không bao giờ nhắm mắt
Như những tâm hồn không bao giờ biết tắt,
Như miền Nam
Hai mươi năm
Không đêm nào ngủ được”
Cách điệp cấu trúc “như... như...” đã tạo nên một chuỗi liên tưởng chặt chẽ, đầy xúc động. Ngọn đèn là hiện thân của miền Nam đau thương nhưng kiên cường suốt hai mươi năm không có nổi một đêm bình yên. Đó là hình ảnh tượng trưng cho lòng quả cảm, cho sự chịu đựng dẻo dai mà không khuất phục. Miền Nam thức vì đạn bom, vì máu chảy và cả vì khát vọng hòa bình. Cả nước cũng “đêm nào cũng thức” để đồng lòng sát cánh với miền Nam. Nghệ thuật ẩn dụ và so sánh được sử dụng nhuần nhuyễn khiến hình ảnh ngọn đèn trở nên sống động và xúc động đến lặng người.
Từ hình ảnh yên tĩnh, thơ dần chuyển sang nhịp điệu mạnh mẽ, sục sôi hơn ở những khổ thơ sau. Ngọn đèn như có linh hồn như một chiến sĩ đồng hành cùng người lính ra trận:
“Đèn ta thắp niềm vui theo dõi
Đèn ta thắp những lời kêu gọi
Đi nhanh đi nhanh
Chiến trường đã giục”
Cấu trúc lặp, các động từ mạnh như “theo dõi”, “kêu gọi”, “giục” kết hợp với nhịp thơ dồn dập tạo nên không khí khẩn trương, thôi thúc. Không còn là ánh sáng tĩnh tại, ngọn đèn lúc này là nguồn động lực, là ngọn lửa cổ vũ người lính tiến lên phía trước. Ngôn ngữ trong sáng, tự nhiên, nhịp điệu biến đổi linh hoạt đã giúp bài thơ truyền tải hiệu quả cảm xúc và tư tưởng.
Bài thơ khép lại bằng hình ảnh ngọn đèn giữa gió mưa, vững chãi như một biểu tượng bất diệt:
“Trong gió trong mưa
Ngọn đèn đứng gốc
Cho thắng lợi, nối theo nhau
Đang hành quân đi lên phía trước.”
Ngọn đèn “đứng gốc” như một người lính canh giữa đêm, giữa thời cuộc. Dẫu thời tiết khắc nghiệt, dẫu bom đạn vây quanh, ánh sáng ấy vẫn không hề tắt, vẫn soi đường, tiếp sức cho chiến thắng nối tiếp chiến thắng. Hình ảnh cuối cùng vừa khái quát tầm vóc của ngọn đèn, vừa biểu đạt niềm tin vững bền của cả dân tộc vào tương lai chiến thắng, vào ngày đất nước độc lập, thống nhất.
Ngọn đèn đứng gác là một bài thơ giàu chất biểu tượng, mang âm hưởng sử thi mà vẫn thấm đẫm chất trữ tình. Chính Hữu đã thành công khi sử dụng hình ảnh ngọn đèn làm trục xoay nghệ thuật, chuyển hóa nó từ một hình ảnh đời thường thành biểu tượng thiêng liêng của hậu phương, của niềm tin, của nghĩa tình nhân dân trong chiến tranh. Giọng thơ trầm lắng, từ tốn kết hợp với sự thay đổi nhịp điệu linh hoạt, ngôn từ mộc mạc mà giàu gợi cảm, tất cả làm nên một bài thơ giản dị mà xúc động, bình dị mà lớn lao.
"Ngọn đèn đứng gác" không chỉ là bài thơ về chiến tranh mà còn là bài thơ về tình người, tình đất nước. Bài thơ khiến ta xúc động và tự hào khi nhận ra rằng, trong những năm tháng khốc liệt nhất, chính tình thương và niềm tin đã giữ vững ngọn lửa trong lòng người dân, tiếp sức cho cả một dân tộc đi qua chiến tranh bằng đôi chân kiên cường và trái tim son sắt. Ngày hôm nay, khi đất nước đã thanh bình, ánh sáng từ ngọn đèn năm ấy vẫn như còn le lói đâu đây nhắc ta sống có trách nhiệm hơn với hiện tại và gìn giữ những giá trị bền sâu của quá khứ.
Bảng tin