

Câu 2 (4,0 điểm) Phân tích truyện ngắn sau:
BỤI NGỌT
(Nguyễn Ngọc Tư*)
[…] Hồi đó, nhà có chiếc xuồng be mười, xong mùa lúa, hai má con rủ nhau đi làm hàng xáo (1). Chúng tôi đi mua lúa dài theo xóm, chở tới nhà máy chà gạo, rồi lấy gạo, cám bán lại cho bà con. Tôi lại học thêm một nghề, học nhìn hạt gạo và gọi đúng tên, giống nào là Tài Nguyên, Tiên Lùn, Nàng Gáo..., loại gạo nào dẻo cơm, loại gạo nào nở bung nồi. Lăn lóc với nghề hàng xáo, má thôi không còn ướt sũng trên đồng, chân dung má bạc màu bụi cám. Đôi mày, tóc mai, và cả mi mắt đều nhuốm bụi, như những người hàng xáo khác. Cuộc mưu sinh giữa nơi bụi mù này đã làm cho mỗi người trở nên bàng bạc, mơ màng.
Đó là chốn mua bán duy nhất mà tôi đã từng qua không có tiếng rao, không tranh giành háy nguýt, không chen chúc xô đẩy. Một cái chợ bình yên. Dường như người ta tin vào sự tồn tại trù phú và miên viễn của cây lúa trên những cánh đồng. Dường như hạt gạo quá linh thiêng nên khi mua bán chúng người ta vẫn giữ chút lòng lành. Dường như những chuyến mua lúa lang thang trên những con sông, trên những dòng kinh xa thẳm đã làm người ta trở nên chân tình và cởi mở.
Tôi hay ngồi vắt vẻo trên những bao lúa, cắn gạo sống lóc cóc, nhấm nháp cái vị béo ngậy bùi bùi của nó, ngóng chuyện sông hồ từ bạn hàng xáo. Nên mỗi khi có xuồng lúa về nhà máy, tôi mừng trước hết, thấy rộn ràng trước hết. Ở đâu đó có ông thầy bùa chữa bệnh bằng… tàn nhang hòa trong nước lã. Ở đâu đó có ông già bảy mươi tuổi cưới một cô mới hai mươi hai. Ở đâu đó có buồng chuối hơn sáu chục nải. Ở đâu đó có con vịt xiêm hai đầu. Ở đâu đó có ma cứ dẫn xuồng lúa đi lạc cả đêm, nên tới bữa nay mới về được đây nè.
Và đâu đó, có những lão nông chỉ chịu khui bồ bán lúa khi gặp lại bạn hàng xáo quen. Vì ông già nhớ một cái nắm tay căn dặn từ mùa trước, “năm tới bác Hai nhớ để giành lúa cho tụi con…”. Lời nói như mũi tên bay vào mịt mùng, mơ hồ như thể không hy vọng và chờ đợi. Bạn hàng xáo quay trở lại, ông già cười hễ hả, “tao trông bây miết…”. Lúa đong vô bao rồi, ông già cứ tần ngần theo rờ rẩm hoài, lúa gạo không đơn giản là một món hàng, mà là mồ hôi nước mắt, là hy vọng. Một bạn hàng xáo giỏi, họ không chỉ thuộc lòng giống lúa của từng vạt đất, bồ lúa của từng nhà, mà còn hiểu nết ăn ở của người dân ở đó… để giữ cái duyên bán mua cho tới mùa sau.
Những người đàn bà ngồi nhổ tóc sâu cho nhau đã dẫn dắt tôi từ chuyện ly kỳ này sang chuyện ngộ nghĩnh khác, từ xa xôi này đến xa xôi khác. Chúng mê hoặc và ám ảnh. Tôi cứ tưởng như bất tận, cho đến ngày những câu chuyện bỗng dưng nhuốm ngậm ngùi. Thấp thỏm. Thảng thốt. Ở đâu đó có những người dân đã phá đập để dẫn nước mặn vào đồng. Ở đâu đó có những góc nhà không còn bồ lúa, ngoài đồng giờ nước trắng xóa, chỉ con tôm. Những lão nông lọm khọm đi mua từng lon gạo về nấu cơm chiều… Cây lúa bị rượt cùng đuổi tận, bị hắt hủi. Ai đó thở dài, chan chứa nhiều linh cảm, “chắc phải bỏ nghề hàng xáo…”.
Sau này có vài dịp đi qua nhà máy cũ, qua cái nền đất chỉ còn chơ vơ ống khói, nghe lạnh, như qua một lò rèn tắt lửa, một lò đường bỏ hoang, một lò cốm quá vãng… Như thể tiếng thở dài của những con người đã từng gắn bó cùng chúng vẫn phảng phất. Đã từng nhộn nhịp. Đã từng vàng son. Giờ thềm xưa đã xanh ngắt bìm bìm, ngó sao mà nhớ những trưa nằm ngủ thẹn thò trên đống lúa. Nhớ những người đàn bà thích nhai gạo sống, ngồi chuyện vãn bên thềm, chung quanh bụi bay bàng bạc. Và bụi thì thơm nồng nàn mùi đồng đất, mùi rạ rơm.
Từ ngày giũ bụi hàng xáo, có thím cất cái quán bán bánh xèo, bánh khọt. Có người về cuốc đất trồng rau. Có người quạt than nướng chuối bên đường. Nhắc cái nhà máy cũ, dì cười, ‘trời, con nhỏ hay kẹp hột lúa nhổ tóc ngứa cho tao hồi đó…”.
Không hiểu sao nghe bùi ngùi, như có hạt lúa nào đâm nhói ran bàn chân trần ở thềm nhà máy cũ...
Chú thích: (*)Nguyễn Ngọc Tư sinh năm 1976 tại xã Tân Duyệt, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau. Bà là một cây bút vô cùng đặc biệt của nền văn học đương đại. Với giọng văn đậm chất Nam Bộ, bình dị, gần gũi nhưng vô cùng sâu sắc; các sáng tác của bà thấm đẫm chất miền quê, cái tình với làng với đất, đặc biệt là tình cảm của con người chân chất hồn hậu.
(1)Hàng xáo: chuyên mua thóc về xay, giã, dần, sàng thành gạo sạch rồi đem đi bán kiếm lời.
phân tích truyện dựa trên dàn ý ,cảm ơn
Hãy luôn nhớ cảm ơn và vote 5*
nếu câu trả lời hữu ích nhé!
Đây là câu trả lời đã được xác thực
Câu trả lời được xác thực chứa thông tin chính xác và đáng tin cậy, được xác nhận hoặc trả lời bởi các chuyên gia, giáo viên hàng đầu của chúng tôi.
Miền Nam Bộ - vùng đất chín rồng hiền hòa- không chỉ nổi tiếng với những dòng sông đỏ nặng phù sa, những cánh đồng lúa trải dài tít tắp, mà còn thấm đẫm tình người mộc mạc, chân chất. Cuộc sống nơi đây tuy lam lũ nhưng luôn ấm áp bởi nghĩa tình, bởi những con người biết sống vì nhau giữa những nhọc nhằn mưu sinh. Văn học Nam Bộ vì thế cũng mang một sắc thái rất riêng: gần gũi, sâu lắng và đầy cảm xúc. Nguyễn Ngọc Tư- cây bút tài hoa của vùng đất cuối trời tổ quốc - đã ghi lại những lát cắt đầy xúc động về đời sống quê hương qua đoạn trích "Bụi ngọt". Tác phẩm không chỉ khắc họa chân thực nghề hàng xáo của người dân miền Tây mà còn thể hiện những đặc sắc về nội dung nhân văn và nghệ thuật kể chuyện độc đáo, mang đến dư âm sâu lắng về một thời đã qua.
Nguyễn Ngọc Tư là một cây bút tiêu biểu của văn học đương đại Việt Nam, đặc biệt gắn bó với vùng đất Nam Bộ. Tác phẩm của bà mang đậm chất Nam Bộ, dung dị mà sâu sắc, mộc mạc mà đầy ám ảnh. “Bụi ngọt” là một đoạn trích tiêu biểu thể hiện rõ phong cách ấy, được trích trong truyện ngắn cùng tên, khắc họa hình ảnh đời sống của những người dân làm nghề hàng xáo - một nghề mưu sinh gắn với lúa gạo, với sự chuyển mình của miền quê sông nước.
Về nội dung, đoạn trích thể hiện nỗi nhớ tha thiết và đầy tiếc nuối về một thời vàng son của nghề hàng xáo- nghề gắn liền với mùi bụi cám, với những con người chân chất, nghĩa tình. Tác giả tái hiện lại một không gian sống tuy vất vả nhưng đầy bình yên, chan chứa niềm tin và tình người. Người hàng xáo không chỉ buôn bán lúa gạo mà còn mang theo cả cái tình, cái nghĩa; họ nhớ nhau chỉ qua một cái nắm tay, một lời hẹn “để dành lúa mùa sau”, để rồi gặp lại mà mừng rỡ “tao trông bây miết”. Tác phẩm cũng phản ánh sự thay đổi của thời cuộc, khi những cánh đồng bị nhiễm mặn, khi cây lúa - biểu tượng cho sự sống bị “đuổi tận, rượt cùng”, khiến những người từng gắn bó phải ngậm ngùi bỏ nghề.
Qua đó, tác giả thể hiện sự tiếc nuối cho một lối sống đẹp, cho một vùng quê đang mất dần những giá trị truyền thống.
Về nghệ thuật, đoạn trích nổi bật với lối kể chuyện giàu cảm xúc, mang chất tự sự nhẹ nhàng pha lẫn trữ tình. Nguyễn Ngọc Tư sử dụng ngôn ngữ bình dị, gần gũi với đời sống miền Tây nhưng lại hàm chứa chiều sâu nội tâm. Những hình ảnh như “bụi cám”, “bao lúa”, “bồ lúa”, “mi mắt nhuốm bụi”,… được lặp lại như một mạch chảy ngọt ngào của ký ức. Nghệ thuật đối lập cũng được vận dụng khéo léo giữa quá khứ và hiện tại, giữa một thời “nhộn nhịp, vàng son” với thực tại “chơ vơ ống khói”, “xanh ngắt bìm bìm”. Chính điều đó đã khơi gợi nỗi niềm xót xa, nuối tiếc cho người đọc. Cách tác giả khắc họa nhân vật cũng rất nhẹ nhàng mà tinh tế, không cần tên tuổi, chỉ cần vài chi tiết nhỏ như “ngồi nhổ tóc sâu”, “cắn gạo sống”, “nói chuyện sông hồ”... cũng đủ để thấy chân dung sống động của người dân quê miền Tây hiện lên một cách đầy chất thơ.
Từ đó, có thể thấy “Bụi ngọt” không chỉ là một bài ca hoài niệm về nghề hàng xáo mà còn là tiếng nói yêu thương, trân trọng những giá trị truyền thống, đồng thời là lời nhắn nhủ giữ gìn bản sắc văn hóa quê hương trong vòng xoáy của sự thay đổi.
“Bụi ngọt” không chỉ là một đoạn văn giàu hình ảnh và cảm xúc, mà còn là lời thì thầm đầy yêu thương của Nguyễn Ngọc Tư dành cho quê hương và con người lao động chân chất. Với nội dung sâu sắc và nghệ thuật kể chuyện độc đáo, tác phẩm để lại dư âm trong lòng người đọc về một vùng ký ức mộc mạc mà thiêng liêng.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
Bảng tin