

Hãy luôn nhớ cảm ơn và vote 5*
nếu câu trả lời hữu ích nhé!
Bài thơ "Quê hương" của Nguyễn Bính là một tác phẩm mang đậm cảm xúc về tình yêu quê hương, thể hiện sự gắn bó và nỗi nhớ nhung về những kỷ niệm của tác giả với mảnh đất nơi mình sinh ra. Dưới đây là phân tích chi tiết về bài thơ này:
1. Hoàn cảnh sáng tác và xuất xứ
Bài thơ "Quê hương" được Nguyễn Bính sáng tác trong những năm 1940. Đây là giai đoạn mà tác giả phải sống xa quê hương, điều này khiến ông càng thêm trân trọng và yêu thương quê hương mình. Bài thơ được viết với ngôn ngữ giản dị nhưng vô cùng sâu sắc, thể hiện tình cảm nồng nàn và tha thiết đối với mảnh đất và con người nơi mình sinh ra.
2. Những hình ảnh, biểu tượng trong bài thơ
3. Nội dung và chủ đề
Bài thơ thể hiện sự yêu mến, nhớ nhung về quê hương, nơi gắn liền với những kỷ niệm tươi đẹp của tuổi thơ. Tác giả nhớ về những hình ảnh giản dị, bình dị nhưng đầy ý nghĩa như những cánh đồng, dòng sông, làng quê. Điều này giúp bài thơ trở nên gần gũi, dễ dàng gây được sự đồng cảm với người đọc.
Tình yêu quê hương: Nguyễn Bính sử dụng những hình ảnh gần gũi với thiên nhiên như sông, mây, bến nước, những con đường làng để bày tỏ tình cảm sâu nặng của mình đối với quê hương. Những hình ảnh này đều là những nét đặc trưng của một làng quê thanh bình.
Nỗi nhớ quê hương: Tác giả cũng thể hiện một nỗi nhớ da diết đối với quê nhà qua những chi tiết giản dị nhưng vô cùng thân thương. Nỗi nhớ ấy không chỉ là hình ảnh, cảnh vật mà còn là con người, là âm thanh, hương vị của đất quê.
4. Tình cảm trong bài thơ
Bài thơ thể hiện tình cảm yêu thương chân thành và sự trân trọng đối với quê hương, nơi đã nuôi dưỡng và hình thành con người của tác giả. Qua đó, Nguyễn Bính gửi gắm thông điệp về tình yêu quê hương là tình cảm không bao giờ phai nhạt, dù ở bất cứ đâu, con người ta vẫn luôn hướng về cội nguồn.
5. Kết cấu và ngôn ngữ
6. Phong cách sáng tác của Nguyễn Bính
Nguyễn Bính là một nhà thơ nổi bật với phong cách sử dụng ngôn ngữ giản dị, dễ hiểu nhưng lại mang đậm cảm xúc. Ông thường xuyên viết về quê hương, tình yêu quê hương, và những nỗi nhớ nhung về quá khứ. Tính chất mộc mạc trong thơ của Nguyễn Bính chính là sức hút lớn của tác phẩm, làm cho người đọc cảm nhận được một cách trực tiếp và sâu sắc về tình cảm của tác giả.
7. Tổng kết
Bài thơ "Quê hương" của Nguyễn Bính là một tác phẩm đẹp, chan chứa tình cảm, thể hiện lòng yêu quê hương sâu sắc của tác giả. Thông qua bài thơ, Nguyễn Bính khắc họa một bức tranh quê hương bình dị, mộc mạc nhưng đầy sức sống. Tình cảm yêu thương quê hương mà ông thể hiện trong tác phẩm này cũng là tình cảm của bao con người khi xa quê, luôn nhớ về nguồn cội.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
Bài thơ "Quê hương" của Nguyễn Bính là một tác phẩm thể hiện nỗi nhớ quê hương, tình yêu đất nước và con người nơi gắn bó. Dưới đây là một phân tích tổng quan về bài thơ: Nguyễn Bính, tên thật là Nguyễn Trọng Bính, là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Ông gắn bó với những cảm xúc riêng tư, đặc biệt là những kỷ niệm về quê hương miền Bắc. Bài thơ "Quê hương" được sáng tác trong khoảng thời gian đầu thế kỷ 20, khi mà nỗi nhớ quê hương thường trở thành nguồn cảm hứng lớn cho nhiều thi sĩ. Bài thơ thể hiện nỗi nhớ quê hương, gợi về hình ảnh làng quê yên bình, giản dị. Nguyễn Bính đã khéo léo đưa ra những cảm xúc chân thật và sâu sắc về quê hương, từ cảnh vật đến con người. Bài thơ mô tả vẻ đẹp của thiên nhiên và cuộc sống thanh bình nơi quê nhà. Những chi tiết như cánh đồng xanh, dòng sông, con đò, cây đa... được đưa vào để tạo nên bức tranh quê hương sống động. Hình ảnh người dân quê hiền lành, chất phác cũng được nhắc đến, thể hiện sự gần gũi và thân thuộc. Nỗi nhớ quê hương được thể hiện qua những ẩn dụ và hình ảnh giàu cảm xúc. Qua đó, Nguyễn Bính thể hiện tình yêu quê hương sâu sắc, dù ở bất kỳ nơi nào, tâm hồn người con của quê hương vẫn luôn hướng về nơi mình đã lớn lên. - Bài thơ cũng mang thông điệp về giá trị của cội nguồn, nhắc nhở mọi người phải trân trọng quê hương, nơi đã nuôi dưỡng tâm hồn và hình thành nhân cách. Nguyễn Bính thường sử dụng thể thơ lục bát, tạo nhịp điệu êm ái, gần gũi. Ngôn ngữ của bài thơ giản dị nhưng giàu hình ảnh và cảm xúc. Các từ ngữ sử dụng rất gần gũi với đời sống thường nhật của con người Việt Nam. - **Biện pháp tu từ:** Ông sử dụng nhiều biện pháp tu từ như phép so sánh, ẩn dụ, điệp ngữ để làm nổi bật cảm xúc và hình ảnh quê hương. Bài thơ "Quê hương" của Nguyễn Bính không chỉ là nỗi nhớ quê hương mà còn là tình yêu đất nước thiêng liêng. Tác phẩm đã khắc họa vẻ đẹp của làng quê Việt Nam và ghi lại tâm tư, tình cảm của những người con xa xứ. Qua đó, bài thơ trở thành một tác phẩm tiêu biểu cho phong trào Thơ mới, là những nhịp cảm xúc chắt chiu từ nỗi nhớ và lòng yêu quê hương của người làm thơ.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
Bài thơ:
Quê hương có bầu cây thị
Tiếng “đàn kêu tích tịch tình tang...”
Có cô Tấm náu mình trong quả thị,
Có người em may túi đúng ba gang.
Quê hương tôi có ca dao tục ngữ,
Ông trăng tròn thường xuống mọi nhà chơi.
Một đĩa muối cũng mặn tình chồng vợ,
Một dây trầu cũng nhắc chuyện lứa đôi.
Con chim nhỏ cũng đau hồn nước mất
“Cuốc cuốc” kêu rỏ máu những đêm vàng
Chân ngựa đá cũng dính bùn trận mạc.
Theo người đi cứu nước chống xâm lăng.
Quê hương tôi có bà Trưng, bà Triệu
Cưỡi đầu voi, dấy nghĩa, trả thù chung.
Ông Lê Lợi đã trường kỳ kháng chiến,
Hưng Đạo vương đã mở hội Diên Hồng.
Quê hương tôi có múa xoè, hát đúm,
Có hội xuân liên tiếp những đêm chèo.
Có Nguyễn Trãi, có “Bình Ngô đại cáo”.
Có Nguyễn Du và có một “Truyện Kiều”.
Quê hương tôi có Trường Sơn một dải,
Có Hồng Hà lại có Cửu Long Giang
Có Hà Nội có hồ Tây, hồ Kiếm.
Chợ Đồng Xuân bày đủ mặt hàng.
Quê hương tôi có sầu riêng, măng cụt
Lòng bưởi đào, lòng gấc đỏ như son.
Có gạo tám xoan thổi nồi đồng điếu,
Cam xã Đoài ai bóc cũng thơm ngon.
Cánh đồng nào cũng chôn vàng giấu bạc,
Bờ biển nào cũng chói ngọc ngời châu.
Có thanh quế ngửi qua là khỏi bệnh,
Có cây lim đóng cả một thân tàu.
Quê hương tôi có những người con gái
“Một ngày hai bữa cơm đèn...
Cách sông cái cũng bắc cầu dải yếm,
Cho chàng sang đính ước chuyện nhân duyên.
Trong bụng mẹ đã từng mê tiếng hát;
Nên quê tôi ai cũng biết làm thơ.
Những trẻ nhỏ nằm nôi hay đặt võng,
Sớm hay chiều, đều mượn cánh cò đưa.
Khi có giặc những tre làng khắp nước,
Đều xả thân làm ngọn mác, mũi chông,
Những trai gái thôn Đông, xóm Bắc
Thoắt vươn vai thành những anh hùng...
Bài làm:
Mỗi chúng ta đều có một chốn trở về – nơi chốn mà chúng ta ra đời và gắn bó với biết bao kỷ niệm. Nơi đó, cha mẹ hi sinh cả cuộc đời nuôi dưỡng, dạy cho ta những bài học đầu đời. Giống như cánh chim khi đủ lông, khao khát bay xa khắp bầu trời, thì chốn ấy lại là miền trời bình yên, nơi chim mỏi mệt sau những chuyến bay dài lại tìm về tổ ấm. Tựa như con thuyền lạc giữa biển khơi, khi giông bão dâng trào, lại luôn hướng về bến đỗ an nhiên, nơi chứa đựng tất cả niềm tin và yêu thương. Bài thơ “Quê hương” của Nguyễn Bính là một bức tranh sinh động khắc họa vẻ đẹp của đất nước qua vô vàn hình ảnh quen thuộc trong đời sống của người dân Việt Nam. Qua đó, tác giả không chỉ ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên, con người, ẩm thực và văn hóa truyền thống, mà còn gợi nhớ những trang sử hào hùng, khắc khoải của dân tộc. Bài thơ như một bản giao hưởng đa sắc, nơi mỗi câu chữ, mỗi hình ảnh đều mang đậm hương vị của quê hương, của cái “nhớ” thiêng liêng, của niềm tự hào dân tộc.
Ngay những câu mở đầu, Nguyễn Bính đã dùng hình ảnh “cây bầu cây nhị” để khơi gợi những ký ức tuổi thơ, gợi nhớ cảnh vật quen thuộc trong làng quê. Từng hình ảnh trong bài thơ như những mảnh ghép của bức tranh quê hương rộng lớn: từ “cô Tấm náu mình trong quả thị” đến “người em may túi đúng ba gang” đều toát lên nét giản dị, mộc mạc nhưng đậm chất dân gian. Việc liệt kê các hình ảnh theo phong cách “Quê hương tôi có…” tạo nên một điệp khúc lặp lại, vừa nhấn mạnh sự đa dạng, vừa mang lại nhịp điệu trữ tình, mượt mà cho toàn bài. Ngôn từ của Nguyễn Bính giản dị nhưng đậm chất ẩn dụ và gợi cảm. Những câu như “Tiếng đàn kêu tích tịch tình tang…” hay “Một đĩa muối cũng mặn tình chồng vợ, Một dây trầu cũng nhắc chuyện lứa đôi” không chỉ phản ánh giá trị vật chất mà còn ẩn chứa giá trị tinh thần, tình cảm con người qua những vật dụng, những nét văn hóa truyền thống. Qua đó, bài thơ như tôn vinh những giá trị sống giản dị nhưng thiêng liêng, gắn liền với tình yêu quê hương.
Bài thơ cất lên là lời ca trong veo về vẻ đẹp tự nhiên mà còn là sự hòa quyện giữa cảnh vật và con người. Những hình ảnh thiên nhiên như “cây bầu cây nhị”, “con chim nhỏ”, “chân ngựa đá” được lồng ghép với những chi tiết về cuộc sống, về con người làm nên những giá trị truyền thống. Hình ảnh “con chim nhỏ cũng đau hồn nước mất – ‘Cuốc cuốc’ kêu rỏ máu những đêm vàng” vừa là tiếng nói than van của thiên nhiên trước những mất mát, vừa là tiếng gọi của lòng yêu nước, của những con người đã xả thân bảo vệ đất nước. Cách sử dụng biện pháp liên tưởng, nhân hoá đã làm cho thiên nhiên trong bài thơ có hồn, có cảm xúc, trở thành người bạn đồng hành cùng con người trong những khoảnh khắc khó quên của lịch sử.
Một trong những nét đặc sắc của bài thơ là sự liên hệ chặt chẽ giữa truyền thống dân gian với lịch sử hào hùng của dân tộc. Nguyễn Bính khéo léo đưa vào bài thơ những hình tượng lịch sử quen thuộc như “bà Trưng, bà Triệu”, “Ông Lê Lợi”, “Hưng Đạo vương”… Những nhân vật này không chỉ là biểu tượng của lòng dũng cảm, tinh thần yêu nước mà còn là nguồn cảm hứng bất tận cho các thế hệ người Việt. Họ như những cột mốc trong sử thi dân tộc, nhắc nhở mỗi người con đất Việt về truyền thống hiên ngang, kiên cường trước mọi thử thách. Cùng với đó, tác giả còn đề cập đến các danh nhân văn học như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du – những người đã góp phần làm rạng danh văn hóa và tư tưởng của dân tộc qua “Bình Ngô đại cáo” và “Truyện Kiều”. Qua đó, bài thơ không chỉ ca ngợi quá khứ hào hùng mà còn thể hiện niềm tin vào sức mạnh của truyền thống, của văn hóa được truyền từ đời này sang đời khác.
Một điểm nhấn khác của bài thơ là sự hiện diện của các hình ảnh về cảnh quan, địa danh và ẩm thực – những yếu tố tạo nên bản sắc riêng của mỗi vùng miền. Tác giả đã “vẽ” ra một đất nước với “Trường Sơn một dải”, “Hồng Hà”, “Cửu Long Giang”, “Hà Nội có hồ Tây, hồ Kiếm” và cả “Chợ Đồng Xuân bày đủ mặt hàng”. Những địa danh này không chỉ là biểu tượng của sự phồn vinh, của nền văn hóa lịch sử lâu đời mà còn là nơi gắn liền với những kỷ niệm, hương vị của quê hương. Đặc biệt, Nguyễn Bính còn nhắc đến các món ăn đặc trưng như sầu riêng, măng cụt, lòng bưởi đào, lòng gấc đỏ như son, gạo tám xoan, cam xã Đoài… Những hình ảnh ẩm thực ấy làm sống động thêm bức tranh quê hương với đầy đủ màu sắc, hương vị và cảm xúc. Ẩm thực không chỉ đơn thuần là thức ăn, mà còn là văn hóa, là niềm tự hào của một dân tộc, là biểu hiện của sự khéo léo, tài hoa của người dân nơi đây.
Bên cạnh những hình ảnh về thiên nhiên, lịch sử và ẩm thực, bài thơ còn khắc họa hình ảnh người phụ nữ quê nhà với nét đẹp giản dị mà tinh tế. “Quê hương tôi có những người con gái, ‘Một ngày hai bữa cơm đèn…’” không chỉ phản ánh cuộc sống thường nhật mà còn cho thấy sự cần mẫn, chu đáo và tài năng của người phụ nữ – những người luôn góp phần xây dựng và gìn giữ những giá trị truyền thống quý báu. Những chi tiết nhỏ như “cách sông cái cũng bắc cầu dải yếm, cho chàng sang đính ước chuyện nhân duyên” vừa mang đậm chất dân gian vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa các thành viên trong cộng đồng. Hình ảnh trẻ thơ cũng được tác giả miêu tả đầy yêu thương qua những câu “Trong bụng mẹ đã từng mê tiếng hát; Nên quê tôi ai cũng biết làm thơ. Những trẻ nhỏ nằm nôi hay đặt võng, Sớm hay chiều, đều mượn cánh cò đưa.” Đây là biểu hiện của sự tiếp nối truyền thống, của nền giáo dục âm nhạc và thơ ca từ thuở còn bấy lâu, là niềm tin vào một tương lai tươi sáng được nuôi dưỡng từ những giá trị văn hóa bản địa. Đỉnh điểm của bài thơ được thể hiện qua những câu nói về lòng yêu nước, về tinh thần quật cường của dân tộc trong những thời khắc gian khổ. Khi “có giặc những tre làng khắp nước, đều xả thân làm ngọn mác, mũi chông, những trai gái thôn Đông, xóm Bắc thoắt vươn vai thành những anh hùng,” người đọc cảm nhận được khát vọng sống mãnh liệt, tinh thần đoàn kết và sự hy sinh cao cả của một dân tộc yêu tự do. Những hình ảnh ấy không chỉ là sự ghi nhận lịch sử mà còn là lời nhắc nhở về trách nhiệm của mỗi người con đất Việt trong việc giữ gìn và phát huy truyền thống anh dũng, kiên cường của tổ tiên.
Xuyên suốt cả trang thơ, ta thấy rằng “Quê hương” của Nguyễn Bính là một bản hùng ca ngợi ca vẻ đẹp của đất nước Việt Nam dưới mọi khía cạnh: từ thiên nhiên, con người, ẩm thực, văn hóa cho đến lịch sử hào hùng. Tác giả đã dùng nghệ thuật liệt kê hình ảnh một cách tài tình để khắc họa nên một bức tranh sống động, giàu cảm xúc và đậm đà bản sắc dân tộc. Mỗi hình ảnh dù giản dị đến đâu cũng chứa đựng một thông điệp sâu sắc về tình yêu quê hương, lòng tự hào dân tộc và khát vọng sống, tự do của con người Việt Nam. Chính sự đa chiều ấy đã làm nên giá trị nghệ thuật trường tồn của bài thơ, giúp người đọc cảm nhận được cái “nhớ” thiêng liêng, tràn đầy cảm hứng và niềm tin vào tương lai của một dân tộc kiên cường. Qua đó, Nguyễn Bính đã gửi gắm niềm tự hào cá nhân mà còn khơi gợi trong lòng mỗi người con đất Việt niềm yêu mến, trân trọng những giá trị truyền thống, những nét đẹp văn hóa đã hun đúc nên tâm hồn và bản sắc của dân tộc. Bài thơ “Quê hương” như một lời ca ngợi bất tận, như một khúc hát du dương vang vọng qua thời gian, nhắc nhở mỗi chúng ta về cội nguồn, về mối liên hệ thiêng liêng giữa quá khứ, hiện tại và tương lai của đất nước.
Bảng tin
40
2451
30
xin câu trả lời hay nhất vs:((