

Phân tích bài thơ "Hội tây" của Nguyễn Khuyến theo dàn ý
a.Mở bài: giới thiệu tác giả, tác phẩm, ý kiến chung của người viết
b.Thân bài:
-Khái quát về bài thơ: hoàn cảnh sáng tác, thể loại
-Nêu nội dung chủ đề của bài thơ
-Làm rõ nội dung chủ đề của bài thơ
-Phân tích một số nét về nghệ thuật bài thơ
c.Kết bài: khẳng định ý nghĩa giá trị bài thơ
Hãy luôn nhớ cảm ơn và vote 5*
nếu câu trả lời hữu ích nhé!

Đây là câu trả lời đã được xác thực
Câu trả lời được xác thực chứa thông tin chính xác và đáng tin cậy, được xác nhận hoặc trả lời bởi các chuyên gia, giáo viên hàng đầu của chúng tôi.
Quê hương luôn là nguồn cảm hứng vô tận, một phần không thể thiếu trong tâm hồn của mỗi con người. Đó là nơi chôn nhau cắt rốn, nơi gắn bó với những kỷ niệm, những tình cảm sâu nặng. Quê hương không chỉ là một không gian địa lý, mà còn là tiếng gọi tha thiết từ trái tim, là mạch nguồn nuôi dưỡng những tình cảm cao đẹp. Chính vì vậy, đối với các nhà thơ, viết về quê hương không phải chỉ là việc tái hiện cảnh vật, mà là sự thể hiện những xúc cảm dạt dào, những trăn trở về số phận con người, về những biến đổi của đất nước. Nguyễn Khuyến, một trong những nhà thơ lớn của văn học Việt Nam, đã để lại dấu ấn sâu đậm qua những vần thơ ngợi ca vẻ đẹp quê hương và những tình cảm chân thành về đất nước. Qua bài thơ “Hội Tây”, nhà thơ đã thể hiện những cảm xúc mạnh mẽ, đầy chua xót trước cảnh đất nước rơi vào tay kẻ xâm lược. Từ việc miêu tả lễ hội bề ngoài rực rỡ, ông đã khéo léo lột tả sự mỉa mai, đau đớn về tình cảnh nô lệ của dân tộc dưới ách thống trị của thực dân Pháp.
Mở đầu bài thơ, Nguyễn Khuyến đã vẽ nên một bức tranh sôi động của lễ hội “Hội Tây” do thực dân Pháp tổ chức:
“Kìa hội Thăng Bình tiếng pháo reo,
Bao nhiêu cờ kéo với đèn treo.”
Với những hình ảnh “tiếng pháo reo”, “cờ kéo” và “đèn treo”, Nguyễn Khuyến đã khắc họa một không gian lễ hội tràn ngập sắc màu, nhưng lại đầy ẩn ý mỉa mai. Lễ hội này không phải là niềm vui tự nhiên của người dân, mà là một trò diễn được dựng lên để người dân Việt Nam tham gia, như một cách để lừa dối họ về cái gọi là "hòa bình" mà thực dân mang đến. Những chi tiết này không chỉ gợi lên hình ảnh một lễ hội lố bịch, mà còn thể hiện sự chiếm đóng, sự thống trị của thực dân Pháp, khi chúng không chỉ cai trị bằng vũ lực mà còn tìm cách "đồng hóa" người dân qua những trò chơi giải trí nhảm nhí. Chính những hình ảnh này đã gợi lên một cảm giác chán chường và xót xa.
Bài thơ tiếp tục miêu tả những cảnh tượng tại hội:
“Bà quan tênh nghếch xem bơi trải,
Thằng bé lom khom nghé hát chèo.”
Lúc này, không gian lễ hội hiện lên với sự đối lập rõ rệt giữa người thống trị và người bị trị. Những bà quan, vốn có địa vị cao trong xã hội, lại được miêu tả với dáng vẻ “tênh nghếch”, thiếu duyên dáng. Đây không chỉ là một sự khôi hài, mà còn là sự châm biếm đắng cay về tầng lớp thống trị của người Pháp, với sự thô kệch và vô cảm. Ngược lại, thằng bé "lom khom" xem hát chèo, một hình ảnh tượng trưng cho người dân nghèo khổ, bị áp bức. Việc “lom khom” không chỉ là một tư thế thấp hèn, mà còn phản ánh tình trạng bất lực, sự thiếu thốn quyền lợi của những con người dưới chế độ thực dân.
Ngay sau đó, nhà thơ tiếp tục khắc họa sự khốn cùng, sự ngớ ngẩn của các trò chơi tại lễ hội:
“Cậy sức cây đu nhiều chị nhún,
Tham tiền cột mỡ lắm anh leo.”
Nguyễn Khuyến không chỉ khắc họa không khí lễ hội, mà còn chỉ trích những hành vi tham lam, vô nghĩa của người tham gia. Việc "tham tiền" khi “leo cột mỡ” chính là biểu tượng cho sự tha hóa, sự mất nhân phẩm của con người trong xã hội dưới ách thống trị. Những trò chơi này thực chất là những chiêu trò để các thực dân áp đặt quyền lực lên dân chúng, khiến họ quay cuồng trong sự thiếu thốn, mờ mắt vì lợi ích nhỏ bé, mà không nhận ra được nỗi nhục mất nước.
Cuối bài thơ, Nguyễn Khuyến đã thể hiện nỗi đau và sự mỉa mai qua những câu thơ đầy ẩn ý:
“Khen ai khéo vẽ trò vui thế,
Vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu!”
Những từ ngữ như “khen” hay “vui” tưởng chừng như mang lại một cảm giác nhẹ nhàng, nhưng thực chất lại chất chứa một sự chua xót. Lễ hội này, dù vui vẻ bề ngoài, lại là sự nhục nhã đối với dân tộc Việt. “Vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu” là sự đối lập sâu sắc, thể hiện sự phẫn uất của nhà thơ trước thực trạng mà đất nước đang phải đối mặt. Đó là nỗi đau của dân tộc, khi người dân bị lôi cuốn vào những trò vui của kẻ xâm lược, mà không nhận thức được sự nhục nhã của chính mình.
Bài thơ “Hội Tây” là một bản cáo trạng đanh thép đối với thực dân Pháp và bọn quan lại tay sai. Đằng sau những hình ảnh vui tươi của lễ hội, Nguyễn Khuyến đã khéo léo vạch trần sự lố bịch, sự tha hóa của một xã hội bị chiếm đóng. Thơ của ông là sự kết hợp giữa tiếng cười và nỗi đau, giữa sự nhẹ nhàng và sự phẫn uất, thể hiện tình yêu nước sâu sắc, lòng trăn trở về vận mệnh của đất nước. Qua đó, bài thơ không chỉ lên án thực dân Pháp mà còn là lời cảnh tỉnh, nhắc nhở con người về lòng tự tôn dân tộc, về ý thức bảo vệ quê hương, đất nước.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
Quê hương là tiếng gọi tha thiết nhất cất lên từ trái tim của mỗi con người. Có thể nói rằng quê hương với những cảnh vật quen thuộc luôn là đề tài gợi nhiều cảm xúc nhất đối với các nhà văn, nhà thơ trong mọi thời đại. Cuộc sống và cảnh vật nơi thôn dã ấy đã đi vào thơ ca và trở thành nguồn cảm hứng dào dạt sáng tạo nên những hình ảnh, những tâm hồn mang đậm bản sắc Việt Nam. Tất cả những cảnh trí thiên nhiên, cuộc sống con người, những tình cảm gắn bó sâu đậm qua những trang thơ càng trở nên sâu sắc, tha thiết và gợi cho ta biết bao cảm xúc đáng trân trọng. Nguyễn Khuyến là một trong những nhà thơ quê cảnh Việt Nam. Qua bài thơ “Hội Tây”, làng cảnh quê hương Việt Nam hiện lên thật sâu sắc.
“Kìa hội thăng bình tiếng pháo reo
Bao nhiêu cờ kéo với đèn treo.
Bà quan tênh nghếch xem bơi trải,
Thằng bé lom khom nghé hát chèo.
Cậy sức cây đu nhiều chị nhún,
Tham tiền cột mỡ lắm anh leo.
Khen ai khéo vẽ trò vui thế,
Vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu!”
Nguyễn Khuyến là một nhà thơ nôm xuất sắc, nhà thơ của làng cảnh Việt Nam. Ông là một người tài năng, yêu nước thương dân. Ông ra làm quan giữa lúc nước mất nhà tan. Tuy nhiên, sau đó ông đã về quê ở ẩn. Ở thời bấy giờ Nguyễn Khuyến không chỉ được coi là nhân cách tiêu biểu Việt Nam thời bấy giờ, mà ông còn là một nhà thơ đau với nỗi đau của nhân dân, ông buồn cho cái sự nghèo đói, ông đau đớn khi nhìn thấy cảnh nước mất nhà tan. Thơ của ông nói lên tấm lòng yêu nước sâu đậm, thiết tha đồng thời thể hiện rõ thái độ chống đối thực dân Pháp. Và bên cạnh đó, tình yêu với thiên nhiên, đất nước, tình bạn, tình cảm gia đình cũng đều là chất liệu được ông đem vào thơ ca. Các tác phẩm gồm có Quế Sơn thi tập, , Yên Đổ thi tập, Bách Liêu thi văn tập, Cẩm Ngữ, cùng nhiều bài ca, hát ả đào, văn tế, câu đối truyền miệng.
Bài thơ “hội Tây” của Nguyễn Khuyến là một tác phẩm nổi tiếng trong văn học Việt Nam. Bài thơ Hội Tây miêu tả không khí vui vẻ, sự hào hứng của những người tham gia hội Tây, qua đó khơi dậy nỗi nhục mất nước. Bài thơ còn thể hiện lòng yêu nước, sự lo lắng trước vận mệnh đất nước của Nguyễn Khuyến.
Hai câu thơ mở đầu, nhà thơ Nguyễn Khuyến đã tái hiện lại khung cảnh nhộn nhịp, náo nhiệt của ngày hội lớn của người Pháp:
“Kìa hội thăng bình tiếng pháo reo,
Bao nhiêu cờ kéo với đèn treo”
Có lẽ đây là một ngày hội lớn của bọn thực dân Pháp ngay trên đất Việt ta. Thật nhố nhăng khi Đất nước ta bị bọn thực dân phong kiến chiếm đóng, chúng đã bày ra những trò chơi để người dân ở xứ An Nam được chung vui, được hưởng “ké” niềm vui của mẫu quốc. Bầu không khí của lễ hội trở nên rạo rực với “cờ kéo” và “đèn treo”. Đây là hai món đồ trang trí đến từ Tây phương. Sự hiện diện của nó đã gián tiếp khẳng định đây chỉ là lễ hội của người Pháp chứ chẳng phải của người Việt chúng ta. Qua lời kể của Nguyễn Khuyến, lễ hội hiện lên thật tươi vui và sống động.
“Bà quan tênh nghếch xem bơi trải,
Thằng bé lom khom nghé hát chèo,
Cậy sức cây đu nhiều chị nhún,
Tham tiền cột mỡ lắm anh leo”
Dù là lễ hội Tây, nhưng các trò chơi xuất hiện vẫn mang đậm truyền thống văn hóa của nước ta, như hát chèo, đánh đu, bơi lội, leo cột… khiến cho người đọc dễ dàng tưởng tượng được không khí vui tươi, náo nhiệt của ngày hội. Thế nhưng chính giọng điệu hóm hỉnh ấy đã nói lên thực trạng đen tối của xã hội, lên án những hành động của bọn thống trị. Mấy bà quan vốn sang trọng, quý phái thì lại được miêu tả với dáng vẻ tênh nghếch kém duyên. Trái ngược với đó là dáng vẻ lom khom của thằng bé xem chèo. Trong sân hát chèo, nơi biểu diễn nghệ thuật truyền thống, thì lại có mấy thằng bé phải lom khom nghe hát chèo. Sao chúng lại phải lom khom để nghe hát, dù sân chèo rộng đến vậy? Hai từ “tênh nghếch” đối lập với “lom khom”, một bên là bà quan với uy cao quyền lớn, một bên là cậu bé đáng thương. Qua đó thấy được thực tại xót xa của đất nước trong nô lệ. Càng xót xa hơn nữa, khi chính những con người bị chà đạp ấy lại không nhận thức được nỗi nhục mất nước mà còn bị chúng cuốn vào những trò chơi nhố nhăng, mụ mị làm ngu dân của bọn thực dân Pháp. Các anh thì hớn hở trèo lên các cột bôi mỡ vì tiền đang treo trên ngọn cây. Tính từ “tham” được đẩy ngay lên đầu câu, đã nhấn mạnh động cơ, mục đích của người tham gia chơi hội. Tất cả tạo nên một bầu không khí nhốn nháo, lộn xộn.
“Khen ai khéo vẽ trò vui thế,
Vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu!”
Nhà thơ như đứng từ xa để cảm nhận sự lố bịch của lễ hội. Từ “vui” đã diễn tả không khí nhộn nhịp, vui vẻ của lễ hội. Nhưng lễ hội lại được khen “khéo vẽ trò”. Câu thơ mang tính chất mua vui, giải trí của lễ hội theo chiều hướng tiêu cực. Biện pháp chơi chữ được sử dụng khéo léo trong hai câu thơ trên nhấn mạnh ý chê cười khinh bỉ trò chơi. Nguyễn Khuyến nhận ra nỗi nhục của cảnh nô lệ, nỗi nhục mất nước. Cặp quan hệ từ tăng tiến” bao nhiêu – bấy nhiêu” đã khiến người đọc cảm nhận được sự phẫn uất của nhà thơ khi chứng kiến người dân mình bỏ mặc danh dự, nhân phẩm đi làm trò mua vui cho kẻ ngoại xâm. Từ đó, nhà thơ đã cảnh tỉnh cho người dân Việt Nam đang bị chúng làm cho mờ mắt.
Qua những câu thơ thơ trên, nhà thơ đã mang lại tiếng cười hóm hỉnh cho người đọc. Đó là tiếng cười lên án, phê phán một xã hội phong kiến, hoàn cảnh mất nước của dân tộc. Giọng thơ Nguyễn Khuyến nhẹ nhàng hóm hỉnh nhưng lại rất thâm thúy chua cay. Bài thơ đã thể hiện tấm lòng yêu nước thương dân của nhà thơ Nguyễn Khuyến. Nhà thơ đã lên án, phê phán bọn quan lại thực dân lố bịch và cảnh tỉnh người dân An Nam mất nước.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
Bảng tin