

Phần I. ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Đọc đoạn trích sau:
(Lược phần đầu: Tám Khoa là một người lính, vợ con ông đã chết trong chiến tranh. Sau ngày giải phóng, có đứa con trai hỏi đúng tên họ, đến tìm và nhận là con ông, nó cười mãi trong niềm vui khôn tả. Đứa nhỏ kể về hoàn cảnh cực khổ của mình)
[…] “Thôi được rồi, con ở lại đây đi”, Tám Khoa nói, làm dấu chấm cuối cùng cho một quyết định mơ hồ, vô lý nhưng không thể nào cưỡng lại được.
Bởi đứa nhỏ đâu phải con ông. Ông đúng tên họ đó, ở đơn vị đó, nhưng hồi đơn vị hành quân về Cà Mau ông đâu có đi. Cả đời ông cũng chưa từng về vùng đó. Ông có vợ con nhưng chết cả rồi, tự tay ông chôn cất, trong chiến tranh ở rừng miền Đông.
Nhưng đó là chuyện đã qua. Giờ đứa nhỏ đang ngồi trước mặt ông, dễ thương quá chừng, nôn nóng muốn gặp cha nó nên vội vã nhận lầm ông. Cũng đâu có sao! Điều quan trọng là nó chẳng còn chỗ nào đi nữa, tám tuổi đã tưới rẫy, giờ lang thang đi tìm cha trong thành phố rộng mênh mông, sau ngày giải phóng rối mù như thế này. Hãy để nó ở lại đây ít ngày, ông tạm nhận là cha nó, để nó có chỗ ở. Rồi sau đó ông sẽ chỉ đường cho nó đi tìm cha, hoặc đích thân ông sẽ dẫn nó đi. Nó tìm gặp được cha rồi ông sẽ vỗ vai người đồng đội nói: “Tôi trả con cho anh đây. Tôi đã làm cha nó một thời gian, cũng thấy ấm lòng, đỡ cô đơn một thời gian”.
Quả thật ông đã ấm lòng, không phải về sau này mà ngay lúc đó. Đứa nhỏ đang ngồi trong phòng ông cao lớn khỏe mạnh, mắt sáng long lanh, tóc chải rẽ, lưng ưỡn thẳng, chiếc túi xách để trong lòng. Một đứa con bỗng dưng hiện ra như thế này! Đứa con của ông không chết cũng bằng cỡ này, hãy để đứa nhỏ này thay vào chỗ đó. Chỉ ít ngày thôi, hoặc lâu hơn cũng được.
Vậy là đứa nhỏ ở với ông, kêu ông bằng ba, bởi ông giả làm như thế. Và nhiều khi ông cũng tưởng lầm như thế. Ngày tháng trôi qua, không thấy ông nói ra sự thật với đứa nhỏ, dẫn nó đi tìm cha nó. Vội làm gì, trước sau rồi nó cũng gặp cha nó thôi. Để ít ngày nữa. Giờ ông đang bận lắm, ông biện bạch như thế, thành phố mới giải phóng đang trong thời kỳ quân quản. Ông đi làm việc suốt ngày, về nhà nhìn thấy đứa con hết mệt ngay. Nó lớn lên trông thấy, chẳng mấy chốc đã cao bằng ông. Phải cho nó ngủ giường riêng, ông đặt hai chiếc giường sát cạnh nhau, đêm nằm thò tay qua nắm tay nó, giở mùng lên nhìn mặt nó. Trước đây ông ăn cơm chung với anh em ở nhà bếp, giờ ông lãnh cơm về nhà hai cha con ăn với nhau. Buổi trưa buổi chiều hai cha con đi lãnh cơm, ông rề rà ở nhà bếp khoe với mọi người đứa con mình thế này thế nọ…
Ông quên hẳn chuyện đưa đứa nhỏ đi tìm cha nó chăng? Không, ông không quên. Ban đêm ông vẫn nằm thao thức tính đến chuyện đường đi nước bước, phải tìm đến chỗ nào gặp đơn vị nào. Nhưng ban ngày ông chỉ tính chuyện hiện tại. Phải lo cho nó đi học, tìm nhà riêng cho nó, chọn cho nó một nghề sống về sau này… Chắc cha thật nó cũng muốn như vậy.
(Lược phần sau: Khi đứa con học xong, có nghề nghiệp ổn định và chuẩn bị cưới vợ, ông Tám Khoa quyết định đi tìm cha ruột cho nó. Gặp cha ruột của con, ông biết chính người con nuôi cũng đã biết sự thật. Anh đã thực sự coi ông như một người cha, tự nguyện lãnh trách nhiệm phụng dưỡng ông tuổi xế chiều. Hai người cha vui mừng cùng chuẩn bị làm đám cưới cho người con)
(Trích Hai người cha, Tuyển tập truyện ngắn Lê Văn Thảo, NXB Văn học, 2012)
* Lê Văn Thảo tên thật là Dương Ngọc Huy, sinh năm 1939 tại huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An. Lê Văn Thảo là một mẫu nhà văn vừa cầm bút vừa cầm súng, gan dạ dũng cảm như một chiến sĩ thực thụ với tư cách phóng viên mặt trận. Trải nghiệm chiến tranh, trải nghiệm cuộc sống với tất cả những bi tráng hào hùng thấm sâu vào máu thịt tâm hồn. Ông đã từng đạt Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật, 2007, Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật, 2012 cho các tác phẩm Con đường xuyên rừng, Tuyển tập truyện ngắn.
Lê Văn Thảo đã góp phần lớn cho diện mạo văn học Việt Nam đương đại kể cả tới sau này trong nhiều sự kiện hội nhập thế giới. Đặc biệt, ông được coi là người có ảnh hưởng quan trọng đối với sự phát triển văn học Thành phố Hồ Chí Minh kể cả tới thời kỳ mở cửa sau này.
Thực hiện các yêu cầu sau:
Câu 1 (0,5 điểm). Xác định ngôi kể trong đoạn trích trên.
Câu 2 (0,5 điểm). Trong đoạn trích trên, nhân vật ông Tám Khoa ở trong hoàn cảnh như thế nào?
Câu 3 (1,0 điểm). Vì sao ông Tám Khoa quyết định cho đứa nhỏ ở lại dù ông biết nó không phải con mình?
Câu 4 (1,0 điểm). Phân tích tác dụng của biện pháp tu từ so sánh được sử dụng trong các câu văn sau: Một đứa con bỗng dưng hiện ra như thế này! Đứa con của ông không chết cũng bằng cỡ này, hãy để đứa nhỏ này thay vào chỗ đó.
Câu 5 (1,0 điểm). Em rút ra những bài học gì cho bản thân sau khi đọc đoạn trích trên?
Phần II. VIẾT (6,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm). Hãy viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày cảm nhận của em về nhân vật ông Tám Khoa trong đoạn trích phần đọc hiểu.
Lm nhanh và đúng giúp mik nha
Hãy luôn nhớ cảm ơn và vote 5*
nếu câu trả lời hữu ích nhé!

Đây là câu trả lời đã được xác thực
Câu trả lời được xác thực chứa thông tin chính xác và đáng tin cậy, được xác nhận hoặc trả lời bởi các chuyên gia, giáo viên hàng đầu của chúng tôi.
Phần I: Đọc hiểu:
Câu 1 :
Ngôi kể trong đoạn trích trên là ngôi kể thứ ba.
Câu 2 :
Nhân vật ông Tám Khoa trong đoạn trích đang ở trong hoàn cảnh đặc biệt và khó khăn. Sau chiến tranh, ông đã mất vợ con trong cuộc chiến tranh tàn khốc và phải sống trong cô đơn. Trong một lần tình cờ, ông nhận nuôi đứa trẻ không phải con ruột của mình, tuy nhiên, ông tạm thời nhận nó như con mình, vì đứa trẻ quá khổ sở và không có chỗ đi. Ông quyết định cho đứa trẻ ở lại để tạm thời giúp đỡ và tạo cho nó một mái nhà trong khi chưa thể dẫn nó đi tìm cha ruột.
Câu 3 :
Ông Tám Khoa quyết định cho đứa nhỏ ở lại dù biết nó không phải con mình vì ông cảm thấy thương cảm với hoàn cảnh của đứa trẻ. Đứa nhỏ, mặc dù không phải con ruột của ông, nhưng lại là một đứa trẻ cô đơn, không biết đi đâu sau khi gia đình chiến tranh bị tan vỡ: " Điều quan trọng là nó chẳng còn chỗ nào đi nữa, tám tuổi đã tưới rẫy, giờ lang thang đi tìm cha trong thành phố rộng mênh mông, sau ngày giải phóng rối mù như thế này." Ông nhận thấy mình có thể cho đứa trẻ một chỗ ở tạm, một mái nhà để nó không phải sống trong cảnh lang thang. Điều quan trọng là ông cảm thấy đứa nhỏ rất dễ thương, và khi nó nhận ông là cha, ông cũng cảm thấy ấm lòng. Hành động tạm nhận đứa trẻ như con mình không chỉ là nghĩa cử nhân đạo mà còn là sự chia sẻ tình thương, mang lại niềm vui cho cả ông và đứa trẻ trong hoàn cảnh khó khăn đó.
Câu 4 :
Biện pháp tu từ so sánh trong câu "Một đứa con bỗng dưng hiện ra như thế này! Đứa con của ông không chết cũng bằng cỡ này, hãy để đứa nhỏ này thay vào chỗ đó" có tác dụng làm nổi bật cảm giác bất ngờ, mừng rỡ của ông Tám Khoa khi đứa trẻ xuất hiện trong cuộc đời ông. Câu nói cũng thể hiện sự thay thế mà ông Tám Khoa mong muốn, ông tưởng tượng đứa con đã mất của mình sẽ trưởng thành như thế này. Cách so sánh "Đứa con của ông không chết cũng bằng cỡ này" làm nổi bật sự tiếc nuối và mất mát của ông đối với đứa con đã mất, đồng thời tạo ra sự đồng cảm mạnh mẽ khi ông nhận đứa trẻ như một cách bù đắp phần nào sự thiếu vắng trong cuộc sống của mình.
Câu 5 :
Đoạn trích đã mang đến cho người đọc những thông điệp nhân văn sâu sắc. Đó là bài học về tình người trong khó khăn, bom đạn . Dù không phải con ruột, nhưng ông Tám Khoa đã hành động như một người cha thực sự, chăm sóc và bảo vệ đứa trẻ, thể hiện lòng nhân ái và tình thương vô điều kiện. Thứ hai, em nhận ra sự quan trọng của chia sẻ và giúp đỡ người khác trong lúc họ khó khăn. Giống như ông Tám Khoa, chúng ta có thể giúp đỡ người khác bằng những hành động nhỏ, nhưng lại có giá trị lớn lao. Cuối cùng, em học được rằng tình cảm con người có thể vượt qua mọi rào cản về quan hệ huyết thống, và một hành động nhân đạo có thể mang lại niềm vui, hạnh phúc cho cả người cho đi và người nhận lại.
Phần II. Viết
Câu 1:
Văn học nói bằng hình tượng, hình tượng nghệ thuật là khối pha lê lấp lánh làm nên giá trị tác phẩm văn học. Nếu cái thần của âm nhạc là giai điệu, của hội họa là đường nét và màu sắc thì cái thần của văn chương chính là ở hình tượng nhân vật. Song những tác phẩm văn học chỉ xây dựng nên những hình tượng về con người thì đó chưa hẳn là một tác phẩm vô giá.Nhân vật ông Tám Khoa trong đoạn trích là minh chứng văn học, một biểu tượng của một người lính, giàu lòng nhân ái và sẵn sàng hy sinh để bảo vệ và chăm sóc người khác. Mặc dù không phải là cha ruột của đứa trẻ, ông Tám Khoa đã nhận nó như con của mình, chăm sóc, nuôi nấng, và làm tất cả những gì có thể để đứa trẻ cảm thấy an toàn và có một mái nhà. Hành động của ông Tám Khoa không chỉ thể hiện lòng nhân đạo mà còn là sự đồng cảm sâu sắc đối với một đứa trẻ bị mất mát, thiếu thốn tình cảm trong một xã hội hỗn loạn sau chiến tranh. Dù biết rõ đứa trẻ không phải con ruột, nhưng ông không từ chối mà tiếp nhận nó với sự chân thành, yêu thương, tạo ra một không gian bình yên cho cả hai. Ông Tám Khoa không hề ngần ngại giả vờ làm cha, tạo dựng tình cảm với đứa trẻ để nó không cảm thấy cô đơn, mất mát.Nhân vật ông Tám Khoa thể hiện sự chịu đựng và khả năng hy sinh lớn lao. Trong khi bản thân ông đã trải qua quá nhiều mất mát trong chiến tranh, cái chết của vợ con khiến ông phải sống trong cô đơn, nhưng ông vẫn sẵn sàng tiếp nhận một đứa trẻ không quen biết, thay nó làm con và dành cho nó tình yêu thương. Điều này cho thấy tấm lòng của ông không chỉ rộng mở mà còn rất kiên cường, thể hiện khả năng làm lại từ đầu trong những hoàn cảnh khó khăn nhất.Bên cạnh đó, tác giả Lê Văn Thảo còn xây dựng tình huống truyện rất đặc sắc và độc đáo. Tình huống bắt đầu với một cuộc gặp gỡ tình cờ giữa ông Tám Khoa và đứa trẻ, khi mà đứa trẻ nhận ông làm cha mà không hề biết đó không phải là người cha ruột của mình. Sự mơ hồ, vô lý nhưng lại hết sức chân thành của tình huống này tạo ra một nghịch lý đáng suy ngẫm về tình cảm con người, về cách mà mỗi cá nhân tìm kiếm sự kết nối trong cuộc sống. Mâu thuẫn giữa nhận thức và hành động của ông Tám Khoa – khi ông biết rõ đứa trẻ không phải con ruột nhưng vẫn chấp nhận làm cha – đã tạo nên một tình huống đầy cảm động và nhân văn.Ngoài ra, tác phẩm cũng thể hiện sự khéo léo trong nghệ thuật xây dựng nhân vật. Lê Văn Thảo đã khéo léo sử dụng hình ảnh ông Tám Khoa như một biểu tượng của người lính hi sinh, chịu đựng, đồng thời cũng là một người cha đích thực trong lòng đứa trẻ. Ông không chỉ là hình mẫu của sự nhân đạo mà còn là đại diện cho những người lính sau chiến tranh, khi họ phải đối diện với những mất mát, nhưng lại có thể tìm thấy niềm vui, sự an ủi trong tình yêu thương dành cho người khác.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
Phần I. ĐỌC HIỂUCâu 1 (0,5 điểm)
Ngôi kể trong đoạn trích trên là ngôi thứ ba.
Câu 2 (0,5 điểm)
Trong đoạn trích trên, nhân vật ông Tám Khoa ở trong hoàn cảnh cô đơn, mất mát. Ông đã mất vợ con trong chiến tranh và sống một mình sau ngày giải phóng.
Câu 3 (1,0 điểm)
Ông Tám Khoa quyết định cho đứa nhỏ ở lại dù ông biết nó không phải con mình vì ông cảm thấy thương cảm và đồng cảm với hoàn cảnh của đứa nhỏ. Đứa nhỏ không còn chỗ nào để đi và đang lang thang tìm cha trong thành phố rộng lớn. Ông Tám Khoa muốn giúp đứa nhỏ có chỗ ở tạm thời và cảm thấy ấm lòng khi có một đứa con bên cạnh.
Câu 4 (1,0 điểm)
Biện pháp tu từ so sánh trong câu "Một đứa con bỗng dưng hiện ra như thế này! Đứa con của ông không chết cũng bằng cỡ này, hãy để đứa nhỏ này thay vào chỗ đó" có tác dụng làm nổi bật sự bất ngờ và niềm vui của ông Tám Khoa khi có một đứa con xuất hiện trong cuộc đời ông. So sánh này cũng thể hiện sự khao khát và mong muốn của ông Tám Khoa có một đứa con để bù đắp cho sự mất mát trong quá khứ.
Câu 5 (1,0 điểm)
Sau khi đọc đoạn trích trên, em rút ra những bài học sau:
Tình thương và lòng nhân ái có thể giúp con người vượt qua những mất mát và đau khổ.
Sự đồng cảm và chia sẻ có thể mang lại niềm vui và hạnh phúc cho cả người cho và người nhận.
Cuộc sống luôn có những điều bất ngờ và đôi khi chúng ta cần mở lòng để đón nhận những điều tốt đẹp.
Phần II. VIẾTCâu 1 (2,0 điểm)
Nhân vật ông Tám Khoa trong đoạn trích phần đọc hiểu là một người lính đã trải qua nhiều mất mát và đau khổ trong chiến tranh. Ông đã mất vợ con và sống cô đơn sau ngày giải phóng. Tuy nhiên, khi gặp đứa nhỏ nhận lầm ông là cha, ông đã quyết định cho đứa nhỏ ở lại dù biết nó không phải con mình. Quyết định này xuất phát từ lòng thương cảm và đồng cảm với hoàn cảnh của đứa nhỏ. Ông Tám Khoa đã tạm nhận đứa nhỏ làm con để nó có chỗ ở và cảm thấy ấm lòng khi có một đứa con bên cạnh. Hành động của ông Tám Khoa thể hiện tình thương và lòng nhân ái, đồng thời cũng cho thấy sự khao khát có một gia đình và niềm vui khi có người thân bên cạnh. Ông Tám Khoa là một nhân vật đáng kính trọng và cảm phục vì tấm lòng nhân hậu và sự hy sinh của mình.
usename: longbuiquang2131
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
Bảng tin