Đề bài: Trước cảnh chiều thu, Anh Thơ viết:
Mây sầm lại trên ao đầy khói lướt
Bụi chuối vàng run đón gió bay qua.
Tiếng dế kêu rì rào bên rãnh nước
Nhịp chuông chiều văng vằng mái chùa xa.
(Trích “Chiều thu”, Anh Thơ, Bức tranh quê, NXB Hội Nhà văn, 1995)
Còn nhà thơ Tế Hanh lại cảm nhận:
Trời xanh một màu xanh mênh mông
Chiều thu lúa gặt phẳng phiu đồng
Phương tây ánh nắng vừa chia biệt
Đã thấy trăng chào sáng phía đông.
Thu 1964
(“Chiều thu”, Tế Hanh, Khúc ca mới, NXB Văn học 1966)
Anh/ Chị hãy viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) so sánh cảm hứng chiều thu của Anh Thơ và Tế Hanh qua hai áng thơ trên.
Chú thích:
Nữ sĩ Anh Thơ (1921 – 2005) tên thật là Vương Kiều Ân, quê ở tỉnh Hải Dương. Anh Thơ sáng tác từ năm 17 tuổi. Với tập Bức tranh quê, bà được nhận giải khuyến khích của Tự lực văn đoàn. Sau đó, bà tham gia viết bài cho báo Đông Tây và một vài báo khác. Giữa lúc phong trào Thơ Mới đang diễn ra sôi nổi, Anh Thơ đã tìm đến thơ như một con đường giải thoát và tự khẳng định giá trị của người phụ nữ trong xã hội đương thời. Thơ bà thiên về tả cảnh bình dị quen thuộc: bờ tre, con đò, bến sông, với những nét vẽ chân thực, tinh tế thấm đượm một chút tình quê đằm thắm pha chút bâng khuâng buồn của Thơ mới.
Tế Hanh (1921 – 2009), tên khai sinh là Trần Tế Hanh, là một nhà thơ thời tiền chiến. Tế Hanh sinh ra tại một làng chài ven biển tỉnh Quảng Ngãi, do đó quê hương chính là nguồn cảm hứng lớn nhất của ông. Ông xuất hiện ở chặng cuối của phong trào Thơ Mới với những bài thơ mang theo nỗi buồn và tình yêu quê hương. Sau năm 1945, ông vẫn luôn tiếp tục bền bỉ sáng tác nhằm phục vụ cách mạng và kháng chiến. Ông được biết đến nhiều nhất với những bài thơ thể hiện nỗi nhớ quê hương tha thiết và niềm khao khát Tổ
quốc được thống nhất.
Hãy luôn nhớ cảm ơn và vote 5*
nếu câu trả lời hữu ích nhé!
Đây là câu trả lời đã được xác thực
Câu trả lời được xác thực chứa thông tin chính xác và đáng tin cậy, được xác nhận hoặc trả lời bởi các chuyên gia, giáo viên hàng đầu của chúng tôi.
Nhà thơ Lê Đạt trong bài “Vân chữ” đã từng khẳng định:
“Mỗi công dân đều có một dạng vân tay
Mỗi nhà thơ thứ thiệt đều có một dạng vân chữ
Không trộn lẫn.”
Quả đúng như vậy, người nghệ sĩ đích thực bao giờ cũng đem đến cho cuộc đời một cái gì đó mới mẻ, một cái gì riêng biệt chưa từng có dù rằng cái anh nói là một vấn đề quen thuộc. Cùng khai thác mảnh đất quen thuộc về chiều thu, nhưng đọc những trang thơ " Chiều thu" của tác giả Anh Thơ và Tế Hanh , ta không chỉ xúc động mà còn nhận ra chất giọng “riêng” của mỗi người.
Thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp.(Sóng Hồng). Dưới góc nhìn thi ca, chiều thu là thời điểm thiên nhiên khoác lên mình một vẻ đẹp rất riêng, mang đến những cảm xúc buồn man mác và tràn đầy suy tư. Hai nhà thơ Anh Thơ và Tế Hanh, mỗi người lại có cách nhìn nhận và cảm nhận riêng biệt về cảnh chiều thu qua những hình ảnh, âm thanh, và cảm xúc mà họ thể hiện trong thơ. Mặc dù đều miêu tả cảnh chiều thu, nhưng cảm hứng và sắc thái trong hai bài thơ của Anh Thơ và Tế Hanh lại mang một sự khác biệt rõ rệt, phản ánh phong cách và tâm trạng của mỗi tác giả.
Nữ sĩ Anh Thơ (1921 – 2005) tên thật là Vương Kiều Ân, quê ở tỉnh Hải Dương. Anh Thơ sáng tác từ năm 17 tuổi. Với tập Bức tranh quê, bà được nhận giải khuyến khích của Tự lực văn đoàn. Sau đó, bà tham gia viết bài cho báo Đông Tây và một vài báo khác. Giữa lúc phong trào Thơ Mới đang diễn ra sôi nổi, Anh Thơ đã tìm đến thơ như một con đường giải thoát và tự khẳng định giá trị của người phụ nữ trong xã hội đương thời. Thơ bà thiên về tả cảnh bình dị quen thuộc: bờ tre, con đò, bến sông, với những nét vẽ chân thực, tinh tế thấm đượm một chút tình quê đằm thắm pha chút bâng khuâng buồn của Thơ mới. " Chiều thu" của Anh Thơ đã khắc họa một bức tranh chiều thu vừa thực vừa mộng, làm nổi bật vẻ đẹp bình dị của làng quê Việt Nam. Bốn câu thơ không chỉ thể hiện tài năng tả cảnh độc đáo của nữ sĩ mà còn là tiếng lòng thiết tha, đượm buồn của tác giả trước vẻ đẹp nhẹ nhàng, man mác của mùa thu nơi thôn dã.
"Thơ là một bức họa để cảm nhận thay vì để ngắm"(Leonardo DeVinci). bài “Chiều thu” của Anh Thơ là bức tranh sinh động, giàu cảm xúc về cảnh chiều thu nơi thôn quê, nơi thiên nhiên hiện lên qua sự quan sát tinh tế và tình yêu quê hương sâu sắc của tác giả:
Mây sầm lại trên ao đầy khói lướt
Bụi chuối vàng run đón gió bay qua.
Câu thơ mở đầu đã vẽ nên khung cảnh chiều thu với những đám mây đang tụ lại, tạo nên một không gian u tịch, mờ ảo. Hình ảnh “ao đầy khói lướt” không chỉ miêu tả khói bốc lên từ việc đốt đồng, mà còn gợi cảm giác bảng lảng, mơ màng của một chiều thu nơi làng quê. Từ “sầm” tạo nên sắc thái u uất, buồn bã, gợi cảm giác nặng nề, cô tịch, phù hợp với tâm trạng man mác thường gắn liền với mùa thu. hình ảnh bụi chuối vàng xuất hiện rất chân thực, gần gũi, nhưng lại được nhân hóa qua động từ “run”. Chi tiết này không chỉ mô tả động thái nhẹ nhàng của lá chuối trước làn gió mà còn gợi nên một cảm giác mong manh, yếu đuối, như đang phản ánh tâm trạng bâng khuâng, xao xuyến của tác giả trước cảnh vật. Màu vàng của bụi chuối làm nổi bật sắc thái của mùa thu – một mùa gắn liền với sự chuyển giao, phai tàn của thời gian. Những câu thơ tiếp theo, tác giả tiếp tục gợi tả bức tranh thiên nhiên bằng âm thanh cảnh vật:
"Tiếng dế kêu rì rào bên rãnh nước
Nhịp chuông chiều văng vằng mái chùa xa".
Âm thanh tiếng dế vang lên từ rãnh nước mang tính chất bình dị và quen thuộc, là thanh âm không thể thiếu trong những chiều quê tĩnh lặng. Từ láy “rì rào” không chỉ diễn tả âm thanh tự nhiên mà còn gợi nên sự êm đềm, nhẹ nhàng và gần gũi của cuộc sống nơi thôn quê. Hình ảnh mái chùa xa với tiếng chuông chiều ngân vang tạo nên một không gian tôn nghiêm, trầm lắng, góp phần gợi lên sự tĩnh tại, thanh thản trong tâm hồn. Từ láy “văng vằng” vừa mô tả được âm thanh xa xôi, vang vọng, vừa mang tính tượng trưng cho sự lan tỏa của cảnh thu vào lòng người. Chi tiết này cũng phản ánh một nét văn hóa rất Việt Nam – sự gắn kết giữa đời sống con người và những giá trị tâm linh. Với cách sử dụng ngôn từ tinh tế và cảm xúc chân thành, Anh Thơ đã khắc họa một bức tranh chiều thu vừa thực vừa mộng, làm nổi bật vẻ đẹp bình dị của làng quê Việt Nam.
Tế Hanh, là một nhà thơ thời tiền chiến. Tế Hanh sinh ra tại một làng chài ven biển tỉnh Quảng Ngãi, do đó quê hương chính là nguồn cảm hứng lớn nhất của ông. Ông xuất hiện ở chặng cuối của phong trào Thơ Mới với những bài thơ mang theo nỗi buồn và tình yêu quê hương. Sau năm 1945, ông vẫn luôn tiếp tục bền bỉ sáng tác nhằm phục vụ cách mạng và kháng chiến. Ông được biết đến nhiều nhất với những bài thơ thể hiện nỗi nhớ quê hương tha thiết và niềm khao khát Tổ quốc được thống nhất. Trong đoạn thơ “Chiều thu” của Tế Hanh, khung cảnh chiều thu hiện lên với những nét tươi sáng, rộng mở, tràn đầy sức sống và cảm giác bình yên:
Trời xanh một màu xanh mênh mông
Chiều thu lúa gặt phẳng phiu đồng
Phương tây ánh nắng vừa chia biệt
Đã thấy trăng chào sáng phía đông.
Mở đầu là một không gian bao la, rộng lớn với hình ảnh bầu trời xanh ngắt, kéo dài vô tận. Cụm từ “một màu xanh mênh mông” gợi nên vẻ đẹp trong trẻo, tinh khiết, không một gợn mây, tạo cảm giác thoáng đãng và yên bình. Đây là một nét đặc trưng của mùa thu Việt Nam – bầu trời cao rộng và sắc xanh thuần khiết. Hình ảnh này mang đến cho người đọc cảm giác thư thái, nhẹ nhàng, đồng thời thể hiện sự rung động tinh tế của nhà thơ trước vẻ đẹp của thiên nhiên. Nhà thơ đã miêu tả khung cảnh cánh đồng mùa gặt, với những thửa ruộng lúa đã được thu hoạch, để lộ mặt đồng bằng phẳng, gọn gàng. Hình ảnh này vừa mang vẻ đẹp của sự trật tự, ấm no trong lao động, vừa thể hiện sức sống và sự gắn bó với quê hương.
Tôi thu thập hình tượng như con ong hút mật vậy. Một con ong phải bay một đoạn đường bằng sáu lần xích đạo trong một năm ba tháng và đậu trên bảy triệu bông hoa để làm nên một gam mật(P. Povienko). Tế Hanh đã lượm gặt từng mảnh hồn thơ trên quê hương mình để viết nên những vần thơ giữa khung cảnh giao thời ấy. Hình ảnh ánh nắng hoàng hôn đang tắt dần nơi phương tây gợi lên thời khắc chuyển giao nhẹ nhàng giữa ngày và đêm. Từ “chia biệt” mang sắc thái nhân hóa, như một lời chào tạm biệt dịu dàng của mặt trời trước khi nhường chỗ cho trăng lên. Điều này không chỉ thể hiện sự quan sát tinh tế của nhà thơ mà còn ẩn chứa cảm xúc man mác, bâng khuâng trước vẻ đẹp của thiên nhiên và dòng chảy của thời gian. “Đã thấy trăng chào sáng phía đông”
Hình ảnh mặt trăng xuất hiện ở phía đông ngay sau khi mặt trời lặn tạo nên một sự hòa quyện tuyệt đẹp giữa hai khoảnh khắc – hoàng hôn và đêm tối. Từ “chào sáng” nhân hóa ánh trăng như một người bạn quen thuộc, gần gũi, mang đến cảm giác ấm áp và thân thuộc. Sự xuất hiện của trăng không chỉ thể hiện chu kỳ tự nhiên mà còn gợi lên sự tuần hoàn, vĩnh cửu của thiên nhiên và thời gian. Qua bốn câu thơ, Tế Hanh không chỉ miêu tả cảnh chiều thu quê hương mà còn gửi gắm tình yêu quê hương sâu sắc và cảm nhận tinh tế về sự hài hòa giữa con người và thiên nhiên.
Mặc dù đều viết về chiều thu, nhưng cảm hứng và phong cách nghệ thuật của Anh Thơ và Tế Hanh có sự khác biệt rõ rệt. Anh Thơ hướng đến việc miêu tả sự u uất, buồn bã của cảnh vật, nhấn mạnh những cảm xúc lặng lẽ, sâu kín của con người trong không gian thu. Còn Tế Hanh lại tôn vinh vẻ đẹp của thiên nhiên, lấy cảnh vật làm nền tảng để thể hiện niềm vui, sự hòa hợp giữa con người và đất trời. Anh Thơ sử dụng những hình ảnh mang tính chất ảm đạm như “mây sầm lại” và “đầm đầm châu sa” để khắc họa một không gian buồn bã, ngập tràn cảm xúc. Ngược lại, Tế Hanh dùng hình ảnh “trời xanh mênh mông” và “lúa gặt phẳng phiu đồng” để vẽ nên một bức tranh chiều thu thanh bình, tràn đầy sức sống và niềm hy vọng. Dù có cách nhìn và cảm nhận khác nhau, cả Anh Thơ và Tế Hanh đều thể hiện được vẻ đẹp của chiều thu qua những hình ảnh, âm thanh, và cảm xúc mang đậm dấu ấn riêng biệt. Anh Thơ thể hiện một chiều thu u uất, tĩnh mịch với cảm xúc bâng khuâng, nuối tiếc, trong khi Tế Hanh lại vẽ ra một bức tranh chiều thu tươi sáng, bình yên và tràn đầy hy vọng. Sự khác biệt trong cảm hứng của hai bài thơ không chỉ phản ánh sự khác biệt về phong cách của hai tác giả mà còn cho thấy cách nhìn nhận đa chiều về vẻ đẹp của thiên nhiên trong thơ ca Việt Nam.
Có thể nói, dù khác biệt về sắc thái và cảm hứng, đều khơi gợi ở người đọc cảm giác yên bình, tĩnh lặng, đồng thời làm nổi bật tình yêu tha thiết đối với quê hương và vẻ đẹp thiên nhiên Việt Nam.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
Bảng tin