

Viết bài văn phân tích một tác phẩm văn học thơ trào phúng bài "Đất vị hoàng" của Trần Tế Xương ( nhớ làm rõ tính trào phúng của bài thơ ) :
Có đất nào như đất ấy không?
Phố phường tiếp giáp với bờ sông.
Nhà kia lỗi phép con khinh bố,
Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng.
Keo cú người đâu như c** sắt,
Tham lam chuyện thở rặt hơi đồng.
Bắc Nam hỏi khắp người bao tỉnh,
Có đất nào như đất ấy không?
Hãy luôn nhớ cảm ơn và vote 5*
nếu câu trả lời hữu ích nhé!
Xin câu trả lời hay nhất
Trần Tế Xương là một trong những nhà thơ trào phúng nổi bật của văn học Việt Nam cuối thế kỷ XIX. Thơ ông không chỉ là tiếng cười hài hước mà còn chứa đựng những nỗi niềm chua xót trước những hiện thực đen tối của xã hội. Bài thơ "Đất Vị Hoàng" là một tác phẩm tiêu biểu, phản ánh hình ảnh quê hương Nam Định - Vị Hoàng với giọng điệu châm biếm sắc sảo. Qua bài thơ, Tú Xương đã khéo léo phê phán những thói hư tật xấu trong xã hội, đồng thời thể hiện sự thất vọng của ông trước sự xuống cấp về đạo đức và lối sống thời bấy giờ.
Bài thơ mở đầu bằng câu hỏi:
“Có đất nào như đất ấy không?”
Câu hỏi mang tính chất mỉa mai, vừa là lời tự vấn, vừa là lời khẳng định rằng vùng đất quê hương ông có những điều thật đặc biệt. Từ “đất ấy” ở đây không chỉ đơn thuần là nơi chốn, mà còn là biểu tượng cho một xã hội đầy rẫy những thói xấu. Sự lặp lại câu hỏi ở đầu và cuối bài thơ như một vòng lặp nhấn mạnh nỗi bức xúc và sự châm biếm của tác giả.
Hai câu thơ tiếp theo vẽ lên hình ảnh của phố phường Vị Hoàng:
“Phố phường tiếp giáp với bờ sông,
Nhà kia lỗi phép con khinh bố.”
Không gian sống của Vị Hoàng được miêu tả một cách chân thực nhưng ẩn chứa sự chê trách. “Phố phường tiếp giáp với bờ sông” nghe có vẻ thanh bình, thơ mộng, nhưng ẩn sau đó là sự gợi ý về lối sống buông thả, không nề nếp. Đặc biệt, câu “Nhà kia lỗi phép con khinh bố” trực tiếp chỉ trích sự suy đồi đạo đức trong gia đình. Những giá trị truyền thống như kính trên nhường dưới, “tôn ti trật tự” đã không còn được giữ gìn.
“Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng,
Keo cú người đâu như cục sắt.”
Hình ảnh “mụ nọ chanh chua” là biểu tượng cho những người phụ nữ đanh đá, thiếu chuẩn mực, phá vỡ sự hòa thuận trong gia đình. Từ “chanh chua” không chỉ là lời phê phán mà còn gợi lên sự hài hước cay đắng, khi cái xấu trở nên quá phổ biến. Bên cạnh đó, sự “keo cú” của con người, được ví như “cục sắt”, là biểu tượng cho sự ích kỷ, lạnh lùng, chỉ biết đến lợi ích cá nhân.
Hai câu thơ tiếp theo tiếp tục làm hiện lên những mâu thuẫn xã hội:
“Tham lam chuyện thở rặt hơi đồng.”
Hình ảnh “rặt hơi đồng” không chỉ ám chỉ sự ham mê tiền bạc, vật chất, mà còn nói lên sự thối nát trong cách sống và cách làm ăn. Tham lam đã trở thành một căn bệnh khó chữa, len lỏi vào mọi ngóc ngách trong xã hội.Kết thúc bài thơ, câu hỏi: “Có đất nào như đất ấy không?” được lặp lại, tạo thành một vòng tròn trào phúng đầy chua xót. Đây không chỉ là sự mỉa mai quê hương Vị Hoàng mà còn là sự thất vọng của tác giả trước thực trạng đạo đức xã hội đang suy đồi.
Tính trào phúng trong bài thơ được thể hiện qua nhiều yếu tố. Trước hết, đó là cách sử dụng ngôn ngữ dân gian, gần gũi, giàu hình ảnh, khiến những lời châm biếm trở nên vừa hài hước vừa sâu cay. Thứ hai, các biện pháp so sánh, ví von như “keo cú người đâu như cục sắt” hay “chuyện thở rặt hơi đồng” góp phần tạo nên tiếng cười nhưng lại ẩn chứa sự chua xót. Cuối cùng, việc lặp lại câu hỏi ở đầu và cuối bài thơ không chỉ nhấn mạnh tính mỉa mai mà còn làm tăng thêm sức nặng cho lời phê phán.
Bài thơ “Đất Vị Hoàng” là một tác phẩm trào phúng đặc sắc, thể hiện rõ tài năng và tâm huyết của Trần Tế Xương. Qua việc phê phán những thói hư tật xấu trong xã hội, Tú Xương không chỉ mang đến tiếng cười chua cay mà còn bày tỏ nỗi buồn sâu sắc trước sự suy thoái của đạo đức và truyền thống. Bài thơ vì thế không chỉ là tiếng lòng của riêng tác giả, mà còn là tấm gương phản chiếu xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX, để lại nhiều giá trị cho người đọc ngày nay.
𝕂𝕚𝕪𝕠𝕞𝕚
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
Trong kho tàng thơ ca trào phúng Việt Nam cuối thế kỉ XIX, Trần Tế Xương (Tú Xương) là gương mặt nổi bật với tiếng cười sắc lạnh, chua chát nhưng đầy chất nhân tình. Ông không chỉ ghi lại một thời buổi đảo điên, rối ren của xã hội nửa thực dân - nửa phong kiến mà còn để lại những bài thơ như những tấm gương phản chiếu sự suy đồi đạo đức. Bài thơ “Đất Vị Hoàng” là một trong những tác phẩm tiêu biểu, phơi bày bộ mặt xấu xí của xã hội đương thời bằng giọng trào phúng đậm đặc và sắc bén.
Ngay từ câu mở đầu “Có đất nào như đất ấy không?”, Tú Xương đã khéo léo nêu lên một câu hỏi tu từ vừa mỉa mai vừa chua cay. Câu hỏi tưởng như ca ngợi quê hương, nhưng thực chất lại mở ra một chuỗi hình ảnh phơi bày sự tệ hại của nơi ông sống. Câu thơ thứ hai “Phố phường tiếp giáp với bờ sông” vừa mô tả thực cảnh thành phố Nam Định nằm bên bờ sông Vị Hoàng, vừa hàm ý nơi đây là mảnh đất của cảnh chen lấn, buôn bán xô bồ, là chỗ phồn hoa giả tạo đang phôi thai dưới ảnh hưởng của văn minh thực dân. Sự đối lập giữa vẻ hào nhoáng và cuộc sống rối ren trở thành nền để nhà thơ bắt đầu mũi dùi châm biếm.
Hai câu tiếp theo đi sâu vào phê phán sự xuống cấp đạo đức gia đình:
“Nhà kia lỗi phép con khinh bố,
Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng.”
Ở đây, Tú Xương không chỉ kể chuyện mà còn tố cáo một xã hội đảo lộn luân thường. “Con khinh bố”, “vợ chửi chồng” là những hình ảnh vốn trái ngược hoàn toàn với truyền thống nề nếp của người Việt. Cách dùng từ “mụ nọ chanh chua” gợi nên sự cay độc, hỗn hào, cho thấy sự băng hoại của nếp nhà. Đó không còn là chuyện của một gia đình, mà là hiện tượng chung của một xã hội lạc loạn.
Sang hai câu thực mạnh mẽ nhất giọng trào phúng:
“Keo cú người đâu như cối sắt,
Tham lam chuyện thở rặt hơi đồng.”
Những từ ngữ “keo cú”, “cối sắt”, “rặt hơi đồng” đã phơi bày một xã hội mà con người bị chi phối bởi đồng tiền đến mức vô cảm, lạnh lùng. “Keo cú như cối sắt” là hình ảnh phóng đại, ví von sắc bén đầy chất mỉa mai. Tú Xương lên án thói keo kiệt, tính toán đến sắt đá của dân thị thành; và “hơi đồng” là biểu tượng cho đồng tiền bẩn thỉu - thứ đang làm mục ruỗng cả đạo lý lẫn nhân tâm. Ở đây, tiếng cười của tác giả sắc như dao, nhằm vào lòng tham và sự thực dụng tàn nhẫn mà xã hội Tây - ta lẫn lộn đã gieo vào con người.
Hai câu kết lặp lại cấu trúc câu hỏi tu từ:
“Bắc Nam hỏi khắp người bao tỉnh,
Có đất nào như đất ấy không?”
Cách lặp lại này vừa tạo âm hưởng châm biếm, vừa như một cái lắc đầu bất lực của nhà thơ trước thực trạng quê hương. “Đất ấy” là đất Nam Định nhưng đồng thời cũng là hình ảnh thu nhỏ của cả xã hội Việt Nam đang mục nát. Giọng thơ xoáy sâu, buồn bã, vừa trách vừa đau, cho thấy nỗi lòng của Tú Xương trước quê hương đang bị thực dân hóa và đạo đức bị đảo lộn.
Với ngòi bút trào phúng sắc sảo, ngôn ngữ đanh thép và giọng điệu mỉa mai thâm thúy, Trần Tế Xương đã dựng nên một bức tranh xã hội sống động mà tăm tối của đất Vị Hoàng cuối thế kỉ XIX. Bài thơ không chỉ là tiếng cười châm biếm mà còn là lời cảnh tỉnh sâu sắc về sự xuống cấp đạo đức và giá trị con người. Chính điều đó làm cho “Đất Vị Hoàng” trở thành một tác phẩm có giá trị lâu bền trong văn học trào phúng Việt Nam.
Bảng tin
2246
10270
1694
bạn ptich theo đề thực luận kết đc k ạ
2246
10270
1694
bạn ơi giúp mik đc k
2246
10270
1694
bạn ơi
2246
10270
1694
lo