

VÂN ĐỒN
Phiên âm:
Lộ nhập Vân Đồn san phục san,
Thiên khôi địa thiết phó kì quan.
Nhất bàn lam bích trừng minh kính,
Vạn hộc nha thanh đỏa thuý hoàn.
Vũ trụ đốn thanh trần hải nhạc,
Phong ba bất động thiết tâm can.
Vọng trung ngạn thảo thê thê lục,
Đạo thị phiên nhân trú bạc loan.
(Thơ chữ Hán Nguyễn Trãi - Ức Trai thi tập,
NXB Văn hoá - Văn nghệ, 2013)
Dịch nghĩa:
Đường vào Vân Đồn núi rồi lại núi,
Trời lộng lộng đất đặt thành chỗ kì quan.
Một tấm sắc lam sắc biếc, kính sáng trong vắt,
Muôn hộc sắc đen xanh, tóc thuý từng chòm.
Vũ trụ bỗng gạn trong biển núi bụi bậm,
Gió sóng không lay chuyển ruột gan sắt gang.
Nhìn vào thấy cỏ ở bờ rờn rờn lục,
Nghe nói đó là vụng người Phiên đỗ tàu.
Dịch thơ:
Đường đến Vân Đồn núi lắm sao!
Kì quan đất dựng giữa trời cao.
Một vùng biển sẫm gương lồng bóng,
Muôn hộc xanh om tóc mượt màu.
Non biển gạn trong tay vũ trụ,
Tim gan chẳng núng sức ba đào.
Trông bờ cây cỏ rờn rờn lục,
Nghe đấy người Phiên vụng đỗ tàu.
(Bản dịch của Đào Duy Anh, theo Nguyễn Trãi toàn tập,
NXB Khoa học Xã hội, 1976)
1. Nêu hiểu biết khái quát về Nguyễn Trãi - tác giả của bài thơ.
2. Dựa vào trình tự miêu tả, tìm bố cục bài thơ và chỉ ra nét đặc sắc của bố cục.
3. Xác định vị trí quan sát của nhà thơ. Vị trí ấy có gì thuận lợi cho việc quan sát và miêu tả?
4. Câu thơ (dịch) "Kì quan đất dựng giữa trời cao" viết về nơi nào? Tìm và phân tích các chi
tiết để chứng minh.
5. Trình bày cảm nhận về tài năng nghệ thuật và tấm lòng của thi nhân đối với thiên nhiên,
đất nước qua bài thơ Vân Đồ
Bảng tin