

Hãy luôn nhớ cảm ơn và vote 5*
nếu câu trả lời hữu ích nhé!

Đây là câu trả lời đã được xác thực
Câu trả lời được xác thực chứa thông tin chính xác và đáng tin cậy, được xác nhận hoặc trả lời bởi các chuyên gia, giáo viên hàng đầu của chúng tôi.
Nguyễn Khuyến (1835-1909) là một trong những nhà thơ lớn của nền văn học trung đại Việt Nam. Ông được mệnh danh là “nhà thơ của làng cảnh Việt Nam”, nổi tiếng với những tác phẩm trữ tình và trào phúng sâu sắc. Trong đó, mảng thơ trào phúng của ông mang giá trị hiện thực cao, phơi bày những mặt trái của xã hội phong kiến đương thời. Bài thơ “Hội Tây” là một tác phẩm tiêu biểu, thể hiện sự châm biếm sắc bén, sâu cay của Nguyễn Khuyến trước sự lai căng, lố bịch của tầng lớp quan lại và thực dân Pháp thời bấy giờ. Bằng lối viết hóm hỉnh, giọng điệu mỉa mai, Nguyễn Khuyến đã khắc họa hình ảnh một hội hè “lai Tây” vô nghĩa, đồng thời bộc lộ nỗi đau xót trước sự suy đồi của xã hội.
Bài thơ “Hội Tây” được viết bằng thể thất ngôn bát cú Đường luật - một thể thơ quen thuộc trong văn học trung đại. Đây là một trong những bài thơ trào phúng xuất sắc của Nguyễn Khuyến. Tác phẩm ra đời trong bối cảnh thực dân Pháp đang xâm lược và từng bước biến Việt Nam thành thuộc địa. Giai cấp thống trị phong kiến nhu nhược, sẵn sàng bắt tay với kẻ thù để giữ vững quyền lợi của mình. Trong khi đó, văn hóa truyền thống Việt Nam bị xâm lấn bởi những yếu tố lai căng từ phương Tây. Lễ hội truyền thống bị thay thế bởi những cuộc vui chơi vô nghĩa, chạy theo phong cách “Tây hóa”. Bài thơ là tiếng cười trào phúng đầy cay đắng của Nguyễn Khuyến trước sự tha hóa của xã hội đương thời.
Bài thơ mở ra với hình ảnh đầy kệch cỡm, trào phúng mang đậm nét tha hóa của xã hội đương thời:
“Lũ chúng ta đầu têu làm hội Tây
Ăn mặc nửa ta, nửa Tây.”
Nguyễn Khuyến đã sử dụng giọng điệu hài hước, châm biếm để mở ra khung cảnh của “hội Tây”. Câu thơ đầu tiên nhấn mạnh vào từ “đầu têu” - một từ mang ý nghĩa tiêu cực, chỉ những kẻ khởi xướng những trò hề, lố bịch. Cách dùng từ này đã thể hiện rõ thái độ phê phán, châm biếm của tác giả đối với những người Việt Nam bắt chước hội hè của người phương Tây một cách thiếu suy nghĩ. Hội Tây diễn ra không phải vì ý nghĩa văn hóa hay lễ hội truyền thống, mà chỉ là một cuộc “đua đòi”, thể hiện sự học đòi, lai căng của một bộ phận người Việt. Họ tự biến mình thành trò cười khi cố gắng mô phỏng hội hè phương Tây. Câu thơ tiếp theo: “Ăn mặc nửa ta, nửa Tây” vẽ nên hình ảnh khôi hài, lố bịch của những kẻ tham dự hội. Họ không hoàn toàn mặc theo lối phương Tây, cũng không giữ được phong thái truyền thống của người Việt, mà hòa trộn một cách vụng về. Hình ảnh “nửa ta, nửa Tây” là biểu tượng cho sự lai căng, mất gốc, thể hiện rõ sự xót xa của tác giả trước cảnh lố bịch của xã hội lúc bấy giờ.
Ngòi bút của Nguyễn Khuyến tập trung khắc họa sâu sắc dáng vẻ khôi hài của bè lũ tay sai:
“Cái quần lĩnh đen, cái áo the
Cái khăn xếp vắt, cái ô đen.”
Hai câu thực tiếp tục phát triển ý từ hai câu đề, tập trung miêu tả cụ thể hình ảnh những kẻ tham gia hội Tây. Với bút pháp tả thực kết hợp giọng điệu mỉa mai, Nguyễn Khuyến đã vẽ nên bức tranh sinh động về trang phục của những người này. “Cái quần lĩnh đen, cái áo the” vốn là trang phục truyền thống của người Việt, cũng như “cái khăn xếp vắt” chính là một nét văn hóa quen thuộc trong lối ăn mặc của đàn ông Việt Nam thời xưa. Tuy nhiên, sự xuất hiện của “cái ô đen” - một vật dụng phương Tây - đã phá vỡ tính truyền thống ấy. Sự kết hợp vụng về giữa trang phục ta và Tây khiến hình ảnh này trở nên hết sức khôi hài. Bốn từ “cái” được lặp lại liên tục đã nhấn mạnh sự vụng về, thô kệch trong cách ăn mặc của họ. Đây không chỉ là sự lai căng trong hình thức mà còn phản ánh tâm lý sính ngoại một cách mù quáng của tầng lớp quan lại và thị dân thời bấy giờ.
Hai câu luận đã chuyển từ miêu tả hình thức sang phản ánh thực trạng xã hội. Nguyễn Khuyến vạch trần sự lệ thuộc nhục nhã của triều đình phong kiến vào thực dân Pháp:
“Ngọn cờ Tây phất phới gió
Cờ Nam phỏng có ra gì.”
Hình ảnh “ngọn cờ Tây” phất phới trong gió là biểu tượng của quyền lực thực dân Pháp đang bao trùm và áp đảo toàn bộ xã hội Việt Nam lúc bấy giờ. Trái lại, lá “cờ Nam” (tượng trưng cho quốc gia, dân tộc Việt Nam) bị hạ thấp một cách đau đớn: “phỏng có ra gì”. Câu thơ chứa đựng nỗi xót xa, chua chát của tác giả trước cảnh nước mất nhà tan. Hội Tây không chỉ là trò vui mang tính hình thức, mà còn phản ánh sự suy vong của đất nước và sự bạc nhược của tầng lớp thống trị.
Kết thúc bài thơ, cảm xúc được đẩy lên cao trào với những từ ngữ sâu cay:
“Bợm Tây, bợm ta, đi đâu cũng thấy
Chúc nhau cái hội mới vui ghê!”
Hai câu kết đẩy ý nghĩa châm biếm lên đến cao trào. Tác giả sử dụng từ “bợm” - một từ mang nghĩa khinh miệt để chỉ những kẻ tham gia hội Tây, bất kể là “Tây” hay “ta”. Những kẻ này tụ họp khắp nơi, vui vẻ trong sự nhố nhăng, lố bịch của mình mà không hề nhận ra mình đang trở thành trò cười. Câu cuối cùng: “Chúc nhau cái hội mới vui ghê!” vang lên như một tiếng cười mỉa mai, chua chát. Từ “vui ghê” vừa mang nghĩa tả thực, vừa hàm chứa sự châm biếm sâu cay. Thực chất, cái hội ấy chẳng hề vui vẻ gì mà chỉ là biểu tượng của sự tha hóa, lai căng và mất gốc của xã hội.
Bài thơ đã khéo léo sử dụng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật nhuần nhuyễn, kết hợp tài tình giữa tả thực và trào phúng, giọng điệu mỉa mai, châm biếm sâu cay nhưng vẫn đậm chất hóm hỉnh, từ ngữ giản dị, dân dã, giàu tính biểu cảm.“Hội Tây” đã phơi bày bộ mặt lố lăng, nhố nhăng của tầng lớp quan lại và thị dân sính ngoại, học đòi văn hóa phương Tây, đồng thời, tác phẩm còn thể hiện niềm đau xót, chua chát của Nguyễn Khuyến trước thực trạng đất nước bị xâm lược, văn hóa truyền thống bị xói mòn. Tiếng cười trào phúng trong bài thơ không chỉ để phê phán mà còn mang tính cảnh tỉnh sâu sắc đối với thế hệ đương thời.
Bài thơ “Hội Tây” là một trong những tác phẩm trào phúng xuất sắc nhất của Nguyễn Khuyến. Qua hình ảnh “hội Tây” nhố nhăng, lố bịch, nhà thơ đã phê phán sâu sắc tâm lý sính ngoại, chạy theo hình thức của một bộ phận quan lại và thị dân trong xã hội phong kiến đương thời. Đồng thời, bài thơ còn thể hiện tình yêu nước thầm kín và nỗi đau xót của Nguyễn Khuyến trước cảnh nước mất nhà tan. Giọng điệu hài hước nhưng đầy chua xót, kết hợp với nghệ thuật trào phúng bậc thầy, bài thơ đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Qua đó, tác phẩm không chỉ phản ánh hiện thực xã hội mà còn mang ý nghĩa cảnh tỉnh, phê phán vẫn còn nguyên giá trị đến ngày nay.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
Bảng tin
6
1131
1
cái ni đâu phải bài hội tây
463
2294
532
đúng mà
463
2294
532
còn đc xth kìa