

Hãy vt 1bài văn 600 chữ phân tích đặc điểm trong cách kể của tác giả
CHỈ LÀ MỘT TRƯA VÔ TÌNH - Nguyễn Ngọc Tư
“Chị ào qua cửa. Và từ cái buổi trưa nắng đỏ, trong cái xóm nghèo Năm Căn đó, tôi biết đến một bà mẹ khác với hình dung quen thuộc khi nghĩ đến mẹ, những gầy, những hiền lành, những dịu dàng, những đau khổ...
Chị mập ù, ngồi oằn cả một góc ván. Chân mày mỏng. Đứa bé bốn tháng tuổi trên tay gầy và xanh. Chị vừa cho nó bú vừa hút thuốc. Khói thuốc phì ra mũi lúc chị cười, trong cái bảng lảng, cứ như khói cũng tuôn từ mắt chị. Đứa bé điềm nhiên miết vào vú mẹ, dường như nếu chỉ có mùi sữa, mùi mồ hôi, mà thiếu mùi thuốc lá thì nó cũng chẳng nhận ra mẹ. Chắc đã nhận được quá nhiều lời cằn nhằn lẫn ái ngại cho việc phì phèo khói thuốc của mình, chị dụi tắt thuốc, cười khà khà phân bua: “ghiền hồi nhỏ rồi chế ơi, bỏ không được”.
Nụ cười hồn nhiên, bầu vú cũng hồn nhiên khoe sự đầy đặn của mình. Áo vén cao không lấp lửng, khách khí. Tôi nhìn hai đứa con lớn nheo nhóc đứng cạnh, tôi nhìn bà mẹ nhỏ tuổi hơn mình, có cái gì đó xót xa đến mức lời lẽ cứ lạc đi đâu.
Tôi cứ tưởng sẽ gặp nhiều nước mắt, gặp nhiều vật vã, bởi đứa bé kia, núm ruột của chị, khi năm mươi ngày tuổi đã bị ông hàng xóm xâm hại tình dục. Chị kể lại chuyện đó với một vẻ tự nhiên, như một bà mẹ nói về vụ trớ sữa của con mình. Hoặc chị đã phải kể nhiều lần, vắt nước mắt nhiều lần rồi, ngay sau khi bi kịch xảy ra. Buổi sáng gửi con đi chợ mua cá, lúc về thấy nó tím tái, xốc nó thì máu từ miệng trào ra theo cái bao tay người ta đã dùng chẹn cứng cổ họng nó cho khỏi gào khóc. Lúc về thì cơn bão sẽ ở lại mãi mãi trong căn nhà thuê tồi tàn và ọp ẹp của chị.
Nhắc đến kẻ bất nhân, chị chửi thề giòn tan, giọng giòn tan, ông già sáu mươi chín tuổi đó chắc là ma quỷ nhập, chớ con chị mềm như cục bông gòn, vui sướng gì mà nỡ lòng… Chị cũng giống tôi, không tin con người lại làm vậy. Chị đòng đưa đứa bé gái bất hạnh trong tay, nựng nịu nó cưng ơi cưng à rồi nói chơi chơi, “mấy bà xóm tui chọc, tại con mầy đẹp quá, nên có… rể sớm… Thằng rể lớn tuổi hơn ông ngoại vợ”. Tôi muốn cười với chị, thật lòng, nhưng vo hoài cũng không thành.
Tôi bệu bạo hỏi tên ông hàng xóm vô đạo, chị ngơ ngác day qua hỏi chồng, “tên gì, ông?”, thấy khách tròn mắt ngạc nhiên, chị cười, “cứ kêu chú bảy chú bảy mà không để ý ổng họ gì…”. Hai bữa trước tòa án gọi chị lên, hỏi, chị có đòi bồi thường gì không, chị chưng hửng, thằng chả nghèo còn hơn tui nữa mà lấy gì bồi thường. Thôi, khỏi. Chị đốt lại điếu thuốc hút dở khi nãy, bàn tay vung lên lượn một vòng khói, “có đòi năm chục ngàn chưa chắc có, cùng là dân ở nhà mướn, biết nhau quá…”.
Tôi tắt máy ảnh, tôi đã bật nó với hy vọng được ghi lại những giọt nước mắt lăn trên mặt chị, như tai tôi cũng mong chờ được nghe những lời than thở buồn rầu. Những biểu hiện mà tôi nghĩ, một người mẹ phải như thế như thế. Nhưng tôi không đợi nữa, vì dù không một chút nào tỏ ra đau đớn bi lụy, chị vẫn là một bà mẹ đúng nghĩa, đẹp và gây xao động như tất cả những bà mẹ trên đời.
Suốt buổi nắng, bà mẹ chỉ thắc thỏm chuyện con gái mình xanh xao quá, “lúc sanh nó được hơn bốn ký lô đó chế, giờ ốm tong vầy…”, rồi mẹ khùynh tay ngó lại mình, đượm buồn, “còn tui thì ú ì. Ai cũng nói tui ăn hết phần của con…”. Nghe như lời tự trách, làm mẹ to khỏe mà cũng không bảo vệ được con mình. Và suốt buổi nắng, bà mẹ không hề tỏ ra lo lắng chuyện trinh tiết, phẩm giá, chuyện con gái mình mai kia sẽ lớn lên với một vết thương…
Tôi chỉ thấy lạ chính mình, sao mà mình nhớ chị lâu vậy, nhớ giọng nói giòn tan, điệu bộ vung tay khẳng khái, bầu vú cứ hồn hậu áp vào mặt đứa con mặc đèn flash máy ảnh lóe lên
Bà mẹ chỉ quan tâm, con mình cần bú, và nó thì quá gầy gò sau một biến cố không ngờ. Cũng có vài chuyện cần thiết nữa, đứa con gái lớn đã tới tuổi vào lớp 1, thằng con trai kế với dị tật trên mắt không biết có chữa được không. Những điều cần cho tâm hồn, lúc bụng no mới nghĩ tới được...”.
(Nguyễn Ngọc Tư, “Yêu người ngóng núi” - NXB Trẻ, 2009, trang 21 đến 24)
Hãy luôn nhớ cảm ơn và vote 5*
nếu câu trả lời hữu ích nhé!

“Yếu tố đầu tiên của văn học là ngôn ngữ, công cụ chủ yếu của nó và cùng với các sự kiện, các hiện tượng của cuộc sống là chất liệu của văn học.” (M. Go-rơ-ki). Văn học nếu không bám rễ vào cuộc đời, nếu không hút nguồn nhựa sống dạt dào ngầm chảy trong lòng cuộc sống thì nó sẽ mãi mãi là một cây non èo uộc, không mang trên mình những cành cây săn chắc, những phiến lá xanh tươi phơi phới dưới ánh nắng mặt trời. Tuy nhiên, bên cạnh nhựa sống tràn trề tuôn trào trong lòng đất, người nghệ sĩ cũng cần biết đào bới, nhào nặn để dâng hiến cho đời những giá trị đặc biệt bằng ngòi bút độc đáo của mình. Nguyễn Ngọc Tư, một trong những tác giả nổi bật của văn học đương đại Việt Nam, luôn để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng độc giả qua những câu chuyện mang phong vị Nam Bộ. Truyện ngắn “Chỉ là một trưa vô tình” không chỉ là một câu chuyện đời thường mà còn là bức tranh sống động về con người và cuộc sống nơi xóm nghèo Năm Căn. Qua đó, Nguyễn Ngọc Tư thể hiện phong cách kể chuyện độc đáo, đậm chất trữ tình nhưng cũng đầy hiện thực.
Nguyễn Ngọc Tư sử dụng giọng kể chân thật, gần gũi, giúp độc giả cảm nhận được sự sống động và chân thực của câu chuyện. Bà mẹ trong truyện hiện lên không phải như một biểu tượng của sự đau khổ, bi lụy, mà là một con người rất đời thường, rất thực tế. Chị cười, hút thuốc, và kể lại biến cố đau đớn của gia đình mình với một sự tự nhiên, bình thản, nhưng ẩn sâu trong đó là nỗi xót xa, bất lực. Tác giả không sử dụng những lời kể quá hoa mỹ hay bi lụy thay vào đó, ngôn ngữ trong truyện rất giản dị, mang tính đối thoại thường ngày, nhưng lại gợi lên những tầng sâu cảm xúc: “Chị cũng giống tôi, không tin con người lại làm vậy.” Câu văn ngắn gọn nhưng mang sức nặng, gợi lên sự bất ngờ, đau xót trước thực tế phũ phàng. Qua đó, Nguyễn Ngọc Tư khéo léo truyền tải những cảm xúc đau đớn mà không cần đến những ngôn từ cầu kỳ, bóng bẩy.
Một đặc điểm nổi bật trong cách kể chuyện của Nguyễn Ngọc Tư là sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố hiện thực khắc nghiệt và chất trữ tình sâu lắng. Câu chuyện được kể qua cái nhìn của người kể chuyện, như một nhân chứng trực tiếp chứng kiến cuộc sống và tâm tư của người mẹ trẻ. Hiện thực cuộc sống khắc nghiệt được phơi bày qua hoàn cảnh xóm nghèo, những khó khăn, bất hạnh của người mẹ khi phải đối mặt với nỗi đau mất mát và sự tổn thương của con cái. Tuy nhiên, trong cái hiện thực đó, tác giả vẫn tìm thấy những nét đẹp dung dị: “Bà mẹ chỉ quan tâm, con mình cần bú, và nó thì quá gầy gò sau một biến cố không ngờ.” Nguyễn Ngọc Tư không tập trung khai thác nỗi đau hay bi kịch, mà hướng tới sự ấm áp, tình yêu thương chân thành của người mẹ dành cho con. Qua đó, tác giả làm nổi bật phẩm chất nhân hậu, kiên cường của con người trong những hoàn cảnh éo le nhất.
Nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư được khắc họa chân thực, sống động qua những chi tiết đời thường. Hình ảnh bà mẹ trẻ hiện lên với vóc dáng mập mạp, dáng ngồi oằn cả một góc ván, đôi tay vung vẩy khói thuốc, là những chi tiết vừa giản dị, vừa khác biệt, tạo nên một hình tượng người mẹ không điển hình nhưng rất đời. Hơn thế, sự hồn nhiên của chị trong cách ứng xử và trò chuyện càng làm nổi bật sự đối lập giữa vẻ bề ngoài và nỗi đau bên trong: “Chị kể lại chuyện đó với một vẻ tự nhiên, như một bà mẹ nói về vụ trớ sữa của con mình.” Sự tự nhiên, bình thản ấy không làm mất đi sức nặng của câu chuyện, mà ngược lại, làm nổi bật sự mạnh mẽ, cam chịu trong tâm hồn người mẹ. Cách miêu tả này không chỉ giúp nhân vật trở nên sống động mà còn khơi gợi sự đồng cảm sâu sắc từ phía độc giả.
Nguyễn Ngọc Tư không chỉ kể lại câu chuyện, mà còn lồng ghép những suy tư, triết lý về cuộc sống và con người một cách nhẹ nhàng, sâu lắng. Người kể chuyện – dường như cũng chính là tác giả – không ngừng trăn trở, suy ngẫm về cuộc sống, về con người qua những điều nhỏ nhặt nhưng đầy ý nghĩa. “Tôi chỉ thấy lạ chính mình, sao mà mình nhớ chị lâu vậy...” Qua lời kể, tác giả dẫn dắt người đọc vào những suy nghĩ về giá trị của tình mẫu tử, về sự đối lập giữa vẻ ngoài mạnh mẽ và nỗi đau nội tâm, cũng như về những nghịch lý trong cuộc sống.
Không gian trong truyện mang đậm hơi thở của vùng đất Nam Bộ, với xóm nghèo Năm Căn, những buổi trưa nắng đỏ, hay hình ảnh khói thuốc bảng lảng. Những chi tiết ấy không chỉ là bối cảnh cho câu chuyện, mà còn góp phần làm nổi bật không khí đời thường, gần gũi, gắn liền với cuộc sống của nhân vật. Bối cảnh này giúp người đọc không chỉ hiểu câu chuyện, mà còn cảm nhận sâu sắc hơn về những con người và cuộc sống nơi đây – những con người chân chất, giàu tình cảm, dù cuộc đời có khắc nghiệt đến đâu. Trong suốt câu chuyện, người kể chuyện – và cũng là độc giả – dường như luôn chờ đợi những biểu hiện bi lụy, đau khổ của bà mẹ. Nhưng điều đó không xuất hiện. Thay vào đó, bà mẹ hiện lên với sự bình thản, chấp nhận thực tế để tiếp tục sống và nuôi con. Sự đối lập giữa kỳ vọng và thực tế này tạo nên một sức hút đặc biệt cho câu chuyện, khiến độc giả không thể rời mắt. Tác giả đã làm nổi bật rằng: nỗi đau không phải lúc nào cũng được thể hiện qua nước mắt, mà có thể nằm trong những điều rất đời thường, trong từng hơi thở và hành động chăm sóc con cái.
Cách kể chuyện của Nguyễn Ngọc Tư trong “Chỉ là một trưa vô tình” mang đậm dấu ấn cá nhân, vừa giản dị, vừa sâu sắc, vừa chân thật, vừa trữ tình. Qua những chi tiết tưởng chừng như nhỏ bé, tác giả khéo léo khắc họa chân dung một người mẹ mạnh mẽ, giàu tình yêu thương, đồng thời khơi gợi những suy ngẫm sâu xa về cuộc sống và con người. Câu chuyện không chỉ là bức tranh chân thực về cuộc sống xóm nghèo, mà còn là bản nhạc trữ tình về tình mẫu tử, tình người, khiến độc giả xao động và suy ngẫm mãi.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
Bảng tin