

ĐỀ SỐ 2. Đọc văn bản sau:
TIẾN SĨ GIẤY
(Nguyễn Khuyến)
Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai,
Cũng gọi ông nghè có kém ai.
Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng,
Nét son điểm rõ mặt văn khôi.
Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ?
Cái giá khoa danh ấy mới hời!
Ghế tréo, lọng xanh ngồi bảnh choẹ,
Nghĩ rằng đồ thật, hóa đồ chơi!
(Thơ văn Nguyễn Khuyến, NXB Văn học, 1971)
Hoàn cảnh sáng tác: Xã hội mà Nguyễn Khuyến sống là xã hội thực dân nửa phong kiến với những biểu hiện lố lăng, kệch cỡm. Ở đó mọi giá trị đạo đức truyền thống đã bị đảo lộn, còn cái mới lại mang bộ mặt của kẻ xâm lược. Ngòi bút thâm trầm mà sâu cay của Nguyễn Khuyến đã chĩa mũi nhọn vào những chỗ hiểm yếu nhất của cái ung nhọt đó. Trong Tiến sĩ giấy nhà thơ đã đem ra trào phúng, châm biếm, hạ bệ thần tượng cao nhất của cả một thể chế xã hội đã tồn tại hàng mấy trăm năm – ông tiến sĩ. Đây là một nhân vật rất quen thuộc của xã hội phong kiến Việt Nam.
Lựa chọn đáp án đúng:
Câu 1. Bài thơ được viết theo thể thơ nào?
Câu 2. Đối tượng được miêu tả trong bài thơ là?
Câu 3. Đối tượng hướng tới của tiếng cười trào phúng trong bài thơ là ai?
Câu 4. Dòng nào sau đây nêu đầy đủ nhất về các chi tiết vẻ ngoài của “tiến sĩ giấy” trong bài thơ?
Câu 5. Tác giả muốn khẳng định điều gì qua các hình ảnh sau: mảnh giấy – thân giáp bảng, nét son – mặt văn khôi?
Câu 6. Phép đối trong bài thơ xuất hiện ở những cặp câu nào?
Câu 7. Giọng điệu chủ đạo của bài thơ là gì?
Câu 8. Hai câu thơ sau cho thấy tâm trạng gì của tác giả?
Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ?
Cái giá khoa danh ấy mới hời!
Trả lời câu hỏi/ Thực hiện yêu cầu:
Câu 9. Vì sao có thể nói bài thơ còn toát ra ý vị tự trào?
Câu 10. Viết đoạn văn ngắn (khoảng 5 – 7 dòng) nêu suy nghĩ về ý nghĩa của việc xác lập mục tiêu trong cuộc sống
Bảng tin