

Viết báo cáo nghiên cứu về. Hai đứa trẻ của Thạch Lam
Hãy luôn nhớ cảm ơn và vote 5*
nếu câu trả lời hữu ích nhé!
ết thúc tác phẩm là giấc ngủ của Liên "trong tĩnh mịch và đầy bóng tối”giữa cuộc đời chật hẹp như chiếc đèn của chị Ty chỉ đủ "chiếu sáng một vùng đất nhỏ". Cuộc sống đơn điệu, buồn tẻ, in hằn lên nếp sống, nếp nghĩ của trẻ thơ. Cái nhìn của Thạch Lam thật tinh tường! Tấm lòng của Thạch Lam thật bao dung! Tác phẩm vang lên lời kêu cứu. Vâng, hãy cứu tâm hồn nhỏ dại của trẻ thơ khi chưa quá muộn. Đến giờ tiếng kêu khẩn thiết cất lên từ những năm 30 ấy vẫn còn nguyên giá trị.
Vậy là giá trị nội dung của Hai đứa trẻ thật lớn lao và đặc sắc. Cái hay là ý nghĩa xã hội và tư tưởng cao sâu, độc đáo ấy lại được gửi gắm trong một câu truyện đơn giản tới mức có thể nói là không có gì đặc biệt. Đó là những câu chuyện sinh hoạt thường ngày của những người lao động lam lũ xoay quanh quầy hàng tạp hóa của chị em Liên vào một buổi chiều tối tại một phố huyện nơi có tuyến đường sắt từ Hà Nội đi qua. Đúng vậy, rất đơn giản, tưởng như không có gì đáng nói, đáng nhớ. Thế nhưng tài năng nghệ thuật dường như bắt đầu từ đấy. "Anh có một biệt tài quý giá là tìm được ngọc trai trong bất kì rãnh nước nào”- một nhà thơ nói về văn hào Anđécxen như vậy. Cái khó ở đây là phải phát hiện ra những điều ẩn chứa bao ý nghĩa sâu xa. Không lấy làm lạ khi nhà văn đưa ta tới một vùng quê vắng lặng vào một buổi chiều tàn dần chuyển sang đêm ngập tràn bóng tối. Dựng cảnh, người viết dụng tâm đặc tả hai phương diện này: sự buồn tẻ của âm thanh và sự tăm tối của không gian. Thật ra không phải không có tiếng động và ánh sáng. Có điều, cùng với sự vận hành của thời gian, cảnh tượng cứ nhạt dần, cứ vắng dần. Không có thì tương lai, tồn tại trong các tác phẩm chủ yếu là thì hiện tại và một phần là quá khứ... Sự tương phản giữa trước và nay, giữa chiều và đêm thật rõ. Trước kia, phố chợ đông vui, sáng sủa hơn nhiều: "Ở sau ga, có mấy hàng cơm mở cửa đón khách, đèn sáng cho đến nửa đêm". Còn giờ đây? "Họ đóng cửa cả rồi... Im lặng và tối đen như ngoài phố". Đặc biệt là thực tại trong tâm tưởng của Liên. Kí ức với cô là Hà Nội "sáng rực vui vẻ và huyên náo". Hiện tại với cô là "đêm của đất quê và ngoài kia, đồng ruộng mênh mang và im lặng". Đáng buồn thay, con người hướng về không phải là ngày mai mà là quá vãng của ngày hôm qua để mơ tưởng và tiếc nuối. Hôm nay khác biệt với hôm trước, hôm trước nữa theo chiều suy giảm. Vẻ đông vui, nhộn nhịp, sáng sủa, tươi tắn... tồn tại ở phía sau. Một quá khứ vàng son! Mà đâu cần nhìn xa, giữa chiều và đêm cũng khác nhau nhiều lắm. Lúc chập tối "các nhà đã lên đèn rồi, đèn treo trong nhà bác phó My...”để chưa đến 9 giờ "tất cả phố sá trong huyện đều thu nhỏ lại nơi hàng nước của chị Ty". Cuộc đời cứ thế mòn mỏi dần theo năm tháng. Người ta chỉ còn biết đọc truyện cổ tích để tiếc nuối quá khứ và lãng quên hiện tại.
Nhìn nghe cho kĩ thì trong thời khắc hiện tại không phải hoàn toàn im ắng và tối tăm. Có tiếng ếch kêu văng vẳng theo gió từ ngoài đồng thổi vào; có tiếng cười khanh khách điên khùng của bà cụ Thi; có tiếng đàn bầu của bác Sẩm bần bật trong yên lặng... Đặc biệt tiếng đoàn tàu "sự hoạt động cuối cùng của đêm khuya”rầm rập đi tới rồi lại rầm rập qua nhanh như "đã đem một chút thế giới khác đi qua". Đó là âm thanh, còn ánh sáng? Có ngọn đèn lay động trên chõng của chị Ty; chấm lửa nhỏ và vàng lơ lửng mất đi rồi lại hiện ra của gánh phở bác Siêu đi trong đêm tối; và còn ngọn đèn vặn nhỏ như hạt đậu thưa thớt từng hột sáng lọt qua phên nứa của Liên nữa. Và nếu cần kể thêm thì phải kể tới những vệt sáng của những con đom đóm "bay là là trên mặt đất hay len vào cành cây". Chấp chới và mơ hồ quá! Có sáng chăng là vẻ lấp lánh của hàng ngàn ngôi sao trên bầu trời. Ánh sáng nơi trời cao, xa xăm và cách biệt. Giá chỉ một màn đêm đen tối, một không gian hoàn toàn tĩnh lặng có lẽ sẽ hơn chăng? Nhưng đó lại là cuộc sống mà tuổi thơ của những Liên, của những An phải cam chịu, phải chấp nhận. Sinh động mà bi đát, khắc khoải làm sao! Gấp truyện ngắn lại, tôi còn như trông thấy bé An từ trong gian hàng nóng nực và đầy muỗi đi ra. Thế rồi An ngồi xuống chiếc chõng tre, "chiếc chõng nan lún xuống và kêu cót két". Cuộc sống sớm dấn thân vào những lo toan vật chất thường ngày đã tác động tới tâm hồn trẻ thơ từ nhiều phía và làm cho chúng trở nên cằn cỗi, trở nên vị kỉ - trẻ thơ không còn là trẻ thơ nữa. Mà qui luật của cuộc đời lại vốn ngặt nghèo: hoa không mọc thì cỏ dại sẽ tươi tốt. Liệu chúng ta có thể dửng dưng?
1/Truyện ngắn “Hai đứa trẻ”, không hiểu đương thời khi Thạch Lam công bố tác phẩm lần đầu (1937?) thì được công chúng đánh giá như thế nào, nhưng 20 năm sau (1957) vẫn được Nguyễn Tuân khen lắm. Nguyễn viết: “Truyện Hai đứa trẻ có một hương vị thật là man mác. Nó gợi một nỗi niềm thuộc về quá vãng, đồng thời cũng dóng lên một cái gì còn ở tương lại. Đây là một mẩu sinh hoạt hàng ngày và kéo dài của hai chị em đứa trẻ thay mẹ trông nom một gian hàng vặt ở một cái phố huyện, gần một cái ga xép. Đêm đêm có những bóng người bình thường lù mù đi qua trước gian hàng. Những bóng người ấy cũng lù mù như nhiều chấm lửa ở những nguồn ánh sáng quanh quất nơi phố huyện. Trong cái bốn bề chìm chìm nhạt nhạt, bỗng có những tiếng động mạnh và những luồng ánh sáng mạnh của một chuyến xe lửa kéo qua hàng ngày. Hai chị em đứa trẻ ngày nào cũng chờ một chuyến tàu đêm kéo qua rồi mới chịu đóng cửa hàng. Nơi thế giới quan của đôi trẻ ở một phố quê, hình ảnh đoàn tàu và cái tiếng còi tàu đã thành một thói quen của cảm xúc và của ước vọng. Đọc Hai đứa trẻ, thấy bận bịu vô hạn về một tấm lòng quê hương êm mát và sâu kín”(Thạch Lam - Dưới bóng hoàng lan, Nxb Kim Đồng, 2/2006, tr 283-284). Nếu tôi nhớ không lầm thì thời điểm Nguyễn viết những lời này (1957) là trước khi xảy ra vụ án Nhân văn Giai phẩm (1958), trong loạt sách do ông Minh Đức xuất bản. Như vậy ta có thể tin vào sự thành thực của Nguyễn.
2/Tôi đọc đi đọc lại truyện ngắn Hai đứa trẻ, tất cả 4 lần. Lại đọc hết cả tập Dưới bóng hoàng lan và tập bút kí Hà Nội băm sáu phố phường. Quả là người đọc không lầm, văn Thạch Lam có số phận dài lâu hơn hai ông anh là Nhất Linh và Hoàng Đạo, dài lâu hơn cả người cùng thời và cùng văn đoàn với ông là Khái Hưng? Chất thơ trong văn Thạch Lam thật thấm thía “Chiều, chiều rồi. một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng theo gió nhẹ đưa vào…” Đây nữa “Trời đã bắt đầu vào đêm, một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát. Đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối. Các nhà đã đóng im ỉm, trừ một vài cửa hàng còn thức, nhưng cửa chỉ để hé ra một khe ánh sáng…” Thạch Lam rất biết mức độ, ông không đem những suy tưởng của người lớn gán cho những đứa trẻ “Vòm trời hàng ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh, lẫn với vệt sáng của những con đom đóm bay là trên mặt đất hay len vào cành cây. An và Liên lặng ngước mắt lên nhìn các vì sao để tìm sông Ngân Hà và con vịt theo sau ông Thần Nông. Vũ trụ thăm thẳm bao la đối với tâm hồn hai đứa trẻ như đầy bí mật và xa lạ và làm mỏi trí nghĩ, nên chỉ một lát hai chị em lại cúi nhìn về mặt đất, về quãng sáng thân mật chung quanh ngọn đèn lay động trên chõng hàng của chị Tý…” Đọc đoạn văn này, tôi bỗng nhớ khi còn là một chú bé con, sau một đêm đập lúa, cùng các ông chú ra tắm sông khuya, thường ngồi trên bờ cát, ngắm bầu trời lồng lộng và chi chít sao , lòng hoang mang những suy nghĩ không cùng…
Đọc lại truyện ngắn này, “rằng hay thì thật là hay”, nhưng tôi không ngăn được câu hỏi: liệu các @ thời nay có còn thích nó, như nhà văn lớn Nguyễn Tuân, như thế hệ tôi từng thích hay không?
Sự nhầm lẫn phải đính chính của nhà thơ Trần Quốc Toàn trong email gửi cho tôi - gọi tên truyện ngắn nổi tiếng của Thạch Lam là Hai chị em (tôi cũng đã gọi nhầm nhiều lần và nhiều bạn dạy Văn khác băn khoăn cũng từng bị tổ trácnhư vậy!) - như một gợi hứng tình cờ, xin viết đôi dòng, lạm bàn về lí do vì sao nhà văn của những truyện ngắn trữ tình đượm buồn lại cắc cớ đặt tên là Hai đứa trẻ, khiến dân văn chương thường gặp phải tình huống nhầm lẫn lạ kì ấy.
Quả thật, đọc toàn bộ văn bản truyện ngắn, duy nhất một lần, Thạch Lam viết cụm danh từ hai đứa trẻ (ngoại trừ một lần khác, ông gọi mấy đứa trẻ, nhưng để chỉ lũ trẻ nhặt rác ngoài sân chợ). Còn lại, ông toàn dùng các cụm danh từ khác để gọi hai nhân vật chính của truyện: hai chị em (14 lần); chị em Liên (03 lần); An và Liên (03 lần); Liên và em (01 lần)…
Nếu luận lí một cách thông thường và nông nổi, căn cứ vào tần suất xuất hiện cụm từ hai chị em, diễn biến cốt truyện, sự phát triển tính cách chủ đạo của nhân vật, lối xưng hô mọi người dành cho Liên…, tên truyện ngắn phải là Hai chị em mới có vẻ phù hợp và sát thực. Vậy vì sao Thạch Lam lại đặt tên truyện ngắn của mình là Hai đứa trẻ? Lí giải điều này không dễ chút nào, nếu suy diễn và áp đặt một cách vu vơ, thiếu căn cứ, hóa ra chúng ta làm hại Thạch Lam hơn là tôn vinh ông! Nhưng đây là một hiện tượng đặc biệt, chắc chắn ám ảnh ít nhiều tín hiệu nghệ thuật nào đó, nên cần tìm hiểu đôi chút, những mong sẽ khám phá được điều gì?
Nhân vật An, đích thực 100% là đứa trẻ, thôi không bàn. Riêng nhân vật Liên, có thật là một trong hai đứa trẻ không, cần thiết phải xem xét. Trước hết, ngay với Thạch Lam, trong thẳm sâu cảm xúc nghệ thuật và ý tưởng sắp xếp câu chuyện, nhân vật, tình tiết… dường như về mặt hình thức, ông coi Liên là một người lớn đúng nghĩa. Bằng chứng là trong toàn bộ văn bản, ông đều gọi Liên hoặc bằng tên hoặc bằng danh từ chị một cách trân trọng, nâng niu. Ở nhiều tình tiết cốt truyện, Liên xuất hiện chững chạc và có chiều sâu của một người lớn. Mở đầu tác phẩm, Liên không thể là một đứa trẻ khi không hiểu sao… thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn. Chỉ có thể là suy tư của một người lớn khi Liên mải ngồi nhìn phố quên mất lời mẹ dặn đóng cửa hàng lúc có trống thu không, bởi mẹ đã coi Liên là người đáng tin, giao cho Liên trông coi cửa hàng. Bản thân Liên cũng tỏ ra chị là người con gái lớn và đảm đang. Cõitâm hồn Liên yên tĩnh hẳn, có những cảm giác mơ hồ không hiểu, trước đêm và thiên nhiên bí ẩn, hoàn toàn là tâm hồn của một người lớn… Rồi lối xưng hô của mọi người với Liên cũng là lối xưng hô với một người đồng đẳng: chị Tí gọi Liên bằng cô (như gọi em gái chồng), cụ Thi gọi Liên bằng cô bé (như gọi một thiếu nữ thành niên) hoặc em (như gọi một người em, tự xưng chị)… Nghĩa là, nói chung mọi thứ liên quan đến nhân vật Liên trong truyện ngắn này, khiến độc giả có rất ít khả năng cảm nhận nhân vật này như là một đứa trẻ, nếu chưa đọc đoạn kết với tư cách đồng sáng tạo và không đọc đi đọc lại nhiều lần để tìm ra ý tưởng sâu xa mà Thạch Lam gửi gắm ở đây cũng như nơi tên tác phẩm.
Rõ ràng, Thạch Lam có dụng ý nghệ thuật khi đặt tên truyện là Hai đứa trẻ mà không phải là Hai chị em. Thứ nhất, Hai chị em không khu biệt một cách rõ rành độ tuổi vị thành niên của hai nhân vật chính như Hai đứa trẻ - điều mà Thạch Lam muốn đụng đến và gửi gắm ý tưởng sâu xa vào đây. Dù tác giả vẫn chỉ gọi nhân vật Liên như một người lớn nhưng trong thẳm sâu trái tim ông, ông luôn muốn Liên vẫn mãi là một đứa trẻ.
Vì sao vậy? Bởi vì, chỉ có thể là đứa trẻ thì nhân vật Liên (cùng An) với tâm hồn trong trắng, giàu khát khao vươn tới những gì mới mẻ, sáng sủa mới có thể tương phản hoàn toàn với thế giới cũ mòn, già nua, tối tăm nơi phố chợ về đêm ấy. Chỉ có thể là đứa trẻ thì nhân vật Liên (cùng An) mới có thể tạo ra sự thương xót, cảm thông sâu sắc nơi tác giả cũng như từ độc giả về cảnh sống thanh bình một cách cực nhọc, yên hàn một cách buồn bã và quẩn quanh, lặng lẽ của một lớp tuổi thơ nông thôn thời ấy. Cho nên, ở đoạn sau của truyện ngắn, thực ra việc chờ đoàn tàu có lẽ chủ yếu chỉ dành cho nhân vật An thì cuối cùng, tác giả cũng phải đưa cả nhân vật Liên vào bằng một hành động mạnh mẽ: Liên dắt em đứng dậy để nhìn đoàn xe vụt qua. Có thể nói, đây là bóng dáng đứa trẻ ấn tượng nhất của nhân vật Liên mà Thạch Lam dựng nên trong tác phẩm này. Nhân đây, một lần nữa, ta nhận ra qui luật vĩnh cửu của tâm hồn con người: trongmột người lớn bao giờ cũng có một đứa trẻ tồn tại với những ước mơ hồn nhiên, trong sáng, thiêng liêng. Và cái ranh giới người lớn - đứa trẻ thường khi rất mong manh, khó phân định, nhất là ở độ tuổi vị thành niên, dậy thì…
Có thể thấy rõ tài dụng quân của Thạch Lam ở truyện ngắn này qua mấy điều ghi ra ở trên. Cả tác phẩm, hai nhân vật chính hầu hết được gọi là hai chị em, chị em Liên, An và Liên, Liên và em… nhưng tên truyện ngắn phải cứ là Hai đứa trẻ. Bởi vì, ở đây tác giả không chủ ý nêu cao chủ đề tình cảm con người (tình cảm chị em) mà là tập trung vào ý tưởng mô tả chân dung thời cuộc (đời sống thấm đẫm màu sắc bi kịch của con người, nhất là lớp trẻ thơ). Lí luận văn học một thời gọi tên tác phẩm chính là chủ đề, đại ý hay gợi ý của toàn tác phẩm là vậy!
Thông số ngữ dụng học khiến không ít người ám ảnh và nhầm lẫn, đọc là Hai chị em. Xét kĩ mới thấy quả là siêu phàm khi nhà văn đặt tên truyện ngắn này là Hai đứa trẻ.
Thạch Lam chấm hết thiên truyện của mình bằng hai chữ bóng tối: "...Liên ngập vào giấc ngủ yên tĩnh, cũng yên tĩnh như đêm ở trong phố tịch mịch và đầy bóng tối".
Bóng tối cũng chính là chữ, ngay từ những dòng đầu của thiên truyện, ngay từ câu văn đầu tiên dành cho nhân vật chính, tác giả đã gửi vào đôi mắt của chính nhân vật này như gieo một mầm tư tưởng, như ém một phục bút: "...đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần".
Từ đây, bóng tối sẽ ngập đầy dần cho tời khi đầy kín tác phẩm.
Thạch Lam đã chủ động nhốt, nén, dồn ép nhân vật của mình vào bóng tối nghệ thuật để dễ bề thể hiện nỗi thèm khát ánh sáng của họ. Trong nỗi khát thèm ấy, ánh sáng cao giá hẳn lên. Chỉ một chút ánh sáng rơi xuống những hòn đá nhỏ một bên sáng một bên tối cũng được nhìn thấy trên đường. Và hầu như mọi thứ làm ra ánh sáng ở cái phố huyện ấy đều được tác giả huy động. Các loại đèn (đèn treo, đèn Hoa Kỳ, đèn dây, đèn lồng, đèn ghi, đèn toa sau cùng). Bếp củi. Tàn lửa. Những con đom đóm. Và dải Ngân hà... Thạch Lam chủ động như một đạo diễn sân khấu, đã cắt đặt vai diễn đâu đó, còn chỉ đạo cả người phụ trách ánh sáng tắt mở đúng lúc để chiếu rọi, che chắn tạo thêm đất diễn cho nhân vật. Và thật là lí thú, qua tay người đạo diễn tài ba này, chính ánh sáng và bóng tối cũng thành vai diễn.
Tất cả ánh sáng nhân tạo, thiên tạo đều như vẽ ra những vạch đích khát vọng của những nhân vật chính và phụ, đều là biểu tượng lấp lánh của ước mơ. Thứ tự đậm nhạt của tập hợp ánh sánh ấy tạo ra cung bậc khác nhau của khát vọng, ước mơ. Hai đứa trẻ (Liên, An và rõ nhất ở Liên) đã hướng khát vọng của mình tới nhiều cung bậc, nhiều ngưỡng khác nhau, nhưng họ đành phải chấp nhận cái ngưỡng hợp với sức mình, đó chỉ là chuyến tầu đêm mang lại chút quá khứ, cho dù đó là một quá khứ sáng trưng và lấp lánh.
Trước đó, hai đứa trẻ chẳng đã thử hướng ươc vọng tới một cõi họ chưa biết, hướng lên không gian xa vời như một tương lai bí mật và xa lạ: "An và Liên ngước mắt lên nhìn các vì sao để tìm sông Ngân Hà và con vịt theo sau ông Thần Nông. Vũ trụ thăm thẳm bao la đối với tâm hồn hai đứa trẻ như đầy bí mật, xa lạ và làm mỏi mọi trí nghĩ, nên chỉ một lát sau chị em lại cúi nhìn về mặt đất..."
Đọc đoạn trích trên, tới chữ mỏi vẫn cứ tưởng tác giả tả thực, nhưng tới chữ cúi thì giật mình nhận ra, không chỉ tả thực, đó còn là cái cúi đầu có chút gì sâu xa như tượng trưng, quen quen như ước lệ. Trăm năm, nghìn năm trước, con người đã cúi trong Đường thi Lý Bạch, và bây giờ đến lượt hai đứa trẻ của Thạch Lam:
Cử đầu vọng minh nguyệt
Đê đầu tư cố hương
(Ngửng đầu nhìn trăng sáng
Cúi đầu nhớ quê xưa)
Ngẩng đầu thì xa vời thế, cúi đầu lại gặp một phố huyện tăm tối, một ga xép nhạt nhòe nơi có bà điên say và gia đình bác xẩm, ngồi, rồi bò, rồi ngủ gục trên manh chiếu rách, đành ngoảnh đầu như một giải pháp tình thế đón chuyến tầu hằng đêm mang về một chút Hà Nội sáng rực và lấp lánh. Cho nên chuyến tầu ấy còi đã rít lên vẫn chẳng lấn át được âm điệu buồn tẻ của thiên truyện đang chìm dần vào bóng tối.
CHÚC BẠN HỌC TỐT
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
Thạch Lam tên khai sinh là Nguyễn Tường Vinh, sau đổi thành Nguyễn Tường Lân, em ruột của hai nhà văn Nhất Linh (Nguyễn Tường Tam) và Hoàng Đạo (Nguyễn Tường Long), xuất thân từ một gia đình công chức gốc quan lại. Ông nội nhà văn quê ở làng Cẩm Phô, Hội An, Quảng Nam, ra làm quan ở đất Bắc rồi sống luôn ngoài ấy. Thạch Lam sinh năm 1910, tại huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương, quê mẹ. Lớn lên, ông học Trung học ở Hà Nội, rồi bỏ học đi làm báo, viết văn cùng các anh và trở thành một cây bút đắc lực của báo Phong hóa và Ngày nay. Sự nghiệp văn chương đang trên đà phát triển thì ông mắc bệnh lao và mất năm 1942, mới 32 tuổi.
Thạch Lam sáng tác không nhiều nhưng đủ để mọi người nhận thấy ông là một nhà văn có phong cách riêng trong sáng, giản dị mà thâm trầm sâu sắc. Mỗi truyện của ông giống như một bài thơ trữ tình, giọng điệu điềm đạm nhưng chứa đựng biết bao cảm xúc thương yêu con người và cảnh vật. Ông có nhiều đóng góp đáng quý cho sự nghiệp phát triển văn xuôi trước Cách mạng tháng Tám, đặc biệt trong thể loại truyện ngắn. Tác phẩm Thạch Lam để lại là truyện ngắn: Gió đầu mùa, Nắng trong vườn, Sợi tóc,… tiểu thuyết Ngày mới; bút kí Hà Nội 36 phố phường; tiểu luận: Theo dòng…
Truyện ngắn Hai đứa trẻ trích từ tập Nắng trong vườn (Nhà xuất bản Đời nay, Hà Nội, 1938). Cũng như những truyện ngắn khác, tác phẩm phản ánh những cảnh đời bề ngoài dường như không có gì đáng để ý, nhưng đi vào bên trong, nơi sâu lắng của tâm hồn thì mảnh đời nào, nhất là của tầng lớp nghèo khổ, cũng gợi lên bao nỗi xót xa, thương cảm, có lúc sâu sắc, tinh tế đến bất ngờ.
Hai đứa trẻ nói về hai chị em Liên và An. Chị độ mười hai, mười ba; em lên tám, lên chín. Gia đình trước ở Hà Nội, sau vì sa sút nên phải về quê ở phố huyện này. Mẹ bận làm hàng xay hàng xáo, giao cho hai chị em trông coi quầy hàng xén nhỏ xíu ở gần ga. Mẹ dặn phải thức cho đến khi xe lửa đi qua, may ra còn có người ở tàu xuống ghé mua hàng. Hai chị em ngồi trên chõng trước hiên chờ. Em buồn ngủ, ngả vào người chị nhưng vẫn nhắc hễ tàu đến thì đánh thức dậy. Chị ngồi nhìn quang cảnh xung quanh. Sự sống chỉ còn thu lại ở cái chõng hàng nước, một gánh phở, một gia đình nhà xẩm. Tất cả đều chìm trong bóng tối mênh mông, còn ánh sáng rực rỡ trên các toa tàu thì vun vút qua mau như từ một cõi nào xa lạ. Hai chị em trông theo làn ánh sáng ấy cho đến lúc nó khuất hẳn ở đằng xa mới đóng cửa đi ngủ.
Nội dung truyện chỉ có vậy nhưng cả một thế giới đã được gợi lên với niềm thương cảm sâu xa. Đó là một thế giới âm thầm, lặng lẽ trong bóng tối của đêm đen; bóng tối của sự nghèo nàn, khốn khó; trong im lìm quạnh quẽ của phố huyện xác xơ. Những đốm sáng lù mù, leo lét lại càng làm nổi rõ thêm màu sắc u ám của cuộc sống khốn cùng. Cũng như ánh sáng rực rỡ thoáng qua ở các toa tàu có vẻ như một ảo ảnh xa xôi không bao giờ dám mơ ước tới. Cái thế giới ấy hai đứa trẻ đã quen thuộc, hơn nữa, đã hòa nhập vào đó với tất cả tâm hồn.
Tác giả chia truyện ra làm ba phần theo trình tự chuyển biến của thời gian và không gian. Phần một là cảnh chợ chiều lúc vừa có tiếng trống thu không, hai chị em Liên đang còn loay hoay xếp dọn cửa hàng. Phần hai là quang cảnh phố huyện về đêm, bóng tối bao phủ khắp nơi. Dấu hiệu của sự sống chỉ còn là mấy ánh đèn. Phần ba là cảnh phố huyện lúc có chuyến tàu đêm vun vút chạy qua trong chốc lát cùng tiếng ồn và ánh sáng.
Câu chuyện diễn ra trong một khung cảnh thiên nhiên được cảm nhận ở cả hai chiều thời gian và không gian. Đó là khoảng thời gian rất ngắn, không gian có sự thay đổi từ cảnh chiều tàn cho đến khi màn đêm buông xuống và đất trời về khuya. Màu sắc của cảnh vật thì từ nhờ nhờ chuyển sang đen sẫm. Màu của cuộc sống ban đêm càng khuya càng tăm tối. Trên cái nền ấy nổi lên một số cảnh tình cứ xoáy mãi vào lòng người đọc. Đó là cảnh ngày tàn nơi phố huyện nhỏ bé, một phiên chợ tàn, một góc chợ đơn sơ, một quán nước nghèo nàn, những kiếp người cơ cực và hình ảnh đoàn tàu vụt qua trong đêm tối.
Mở đầu truyện là hình ảnh phố huyện lúc hoàng hôn được tác giả miêu tả bằng những câu văn có nhịp điệu thong thả, chậm rãi, cùng với những âm thanh, hình ảnh báo hiệu đã hết một ngày:
Tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ, từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều. Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn. Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời.
Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào. Trong cửa hàng hơi tối, muỗi đã bắt đầu vo ve. Liên ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen; đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị; Liên không hiểu sao, nhưng chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn.
Các hình ảnh trên đều gợi cảm giác bâng khuâng, man mác.. Gọi là phố huyện nhưng là huyện nhỏ, hiệu lệnh phát ra từ một cái chòi chứ không phải là một tháp canh. Cái chòi bé tí lại lẩn vào dãy tre làng đang đen lại, vào lúc trời tây đỏ rực nhưng sắp tàn. Ngoài cánh đồng, tiếng ếch nhái kêu ran theo gió nhẹ đưa vào. Trong cửa hàng của chị em Liên, tiếng muỗi vo ve. Liên bỗng dưng thấy cái buồn của ngày tàn thấm thìa vào tâm hồn khi ngồi bên cạnh những quả thuốc sơn đen, đôi mắt ngập đầy dần bóng tối.
Trong bức tranh chiều tàn nơi phố huyện có sự hoà trộn giữa hai loại hình ảnh: hình ảnh êm đềm, thi vị và hình ảnh gợi sự nghèo khổ, bần cùng. Chẳng hạn: tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ, từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều là thơ mộng; còn tiếng ếch nhái kêu ran, tiếng muỗi vo ve… thì đã gợi ra cuộc sống nghèo nàn nơi thôn dã.
Thật ra, cũng khó mà nói cho rạch ròi nỗi buồn từ cảnh vật thấm vào lòng người hay nỗi buồn trong tâm hồn thơ ngây của hai chị em lan tỏa ra, nhuốm vào cảnh vật. Chỉ biết ở đây có một cái gì đó thật nhịp nhàng, hòa hợp giữa cảnh với người.
Đoạn văn mở đầu vừa giàu hình ảnh, nhạc điệu, vừa uyển chuyển, tinh tế. Nó không những khiến người đọc hình dung ra cảnh vật mà còn khơi gợi tình cảm, xúc cảm trước thiên nhiên gần gũi, bình dị của quê hương.
Sau một ngày làm lụng cực nhọc, cái chờ đợi mọi người chỉ là bóng tối và sự vắng lặng, quạnh hiu. Cảnh chợ chiều đã vãn bộc lộ rõ cái nghèo: rác rưởi vung vãi trên nền chợ và những đứa trẻ lom khom tìm kiếm những gì có thể dùng được cho cuộc sống nghèo khổ của gia đình chúng. Đó là mặt trái, là một thứ bóng tối của chợ.
Bấy nhiêu chi tiết đều tập trung vào xu thế thu nhỏ lại, lụi tàn đi của những cảnh vật ban ngày trước cái thế chiếm lĩnh, tràn dâng mỗi lúc một mạnh của những cảnh tình ban đêm mà bóng tối dần dần ngự trị. Mở đầu truyện là bóng tối, chấm dứt truyện cũng là bóng tối. Bóng tối mênh mang, phủ trùm lên tất cả cảnh vật và con người.
Lúc còn tranh tối tranh sáng, tuy các nhà đã lên đèn nhưng những nguồn sáng ấy không thể xua tan bóng tối, khiến những hòn đá nhỏ hãy còn một bên tối. Bắt đầu đêm thì đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối. Bác hàng phở lom khom nhóm lửa thì bóng bác mênh mang ngả xuống đất một vùng và kéo đến tận đàng xa. Chị em Liên ngồi trên chiếc chõng tre dưới gốc bàng với cái tối chung quanh. Toàn là bóng tối. Tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại đen sẫm hơn nữa. Trống cầm canh cũng đánh tung lên một tiếng ngắn rồi chìm ngay vào bóng tối. Lúc này, các cửa hàng cơm ở ga cũng im lặng, tối đen như ngoài phố. Con tàu với ánh đèn sáng trưng đi qua rồi thì đêm tối lại bao quanh, màn đêm của đất quê, của đồng ruộng mênh mang và im lặng. Chị em Liên cũng đi vào giấc ngủ tịch mịch và đầy bóng tối.
Bóng tối át cả ánh sáng. Vài ánh sáng thưa thớt, mờ nhạt khiến bóng tối lại càng dày đặc. Vệt sáng của những con đom đóm bay là là trên mặt đất hay len vào cành cây, cũng như hàng ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh trên liền trời… Thứ ánh sáng xa vời ấy là sản phẩm của đêm, hoà tan trong bóng đêm. Đáng chú ý là ngọn đèn le lói trên chõng hàng nước của mẹ con chị Tí, bếp lửa thấp thoáng nơi gánh phở của bác Siêu, ánh đèn yếu ớt trong quầy hàng của chị em Liên và từ cái đèn lồng trong tay người nhà hiệu khách, từ chiếc đèn ghi xanh lét của nhà ga. Ngọn đèn trên chõng hàng nước của chị Tí chỉ là một quầng sáng nhỏ nhoi giữa mặt đất ngập tràn bóng đêm, dưới một bầu trời bao la thăm thẳm đầy bí mật. Bếp lửa của bác Siêu chỉ là một chấm lửa nhỏ và vàng, lơ lửng đi trong đêm tối, thoáng hiện, thoáng mất, chỉ làm cho bóng bác mênh mang. Ánh đèn trong cửa hàng chị em Liên thì thưa thớt từng hột sáng lọt qua phên nứa. Ánh đèn lồng thì lung lay cái bóng đen dài của người cầm đèn. Chiếc đèn ghi thì lửa xanh biếc như ma trơi. Trong khi đó, chung quanh những điểm sáng leo lét ấy là cả một bóng tối đen kịt, mênh mông, vô tận. Những hột sáng, những chấm lửa ấy chỉ làm cho bóng đêm thêm dày đặc, âm u.
Trang sách nhuộm đầy bóng tối là để gắn vào cái khung tối tăm ấy những mảnh đời không kém tối tăm. Trong cảnh ngày tàn, chợ tàn, hiện lên những kiếp người tàn tạ. Những kẻ kiếm sống ban ngày với phiên chợ như mấy bà bán hàng về muộn, mấy đứa trẻ nhặt rác, chị em Liên. Những người kiếm sống ban đêm quanh góc chợ và sân ga xép như mẹ con chị Tí, bà cụ Thi, bác phở Siêu, gia đình bác xẩm…
Họ có chung cuộc sống tối tăm, nghèo đói, chung cảnh ngộ tẻ nhạt, buồn chán. Tuy vậy, trong tâm hồn họ vẫn ánh lên vẻ đẹp của tình người, tình quê hương và le lói một niềm hi vọng vào một ngày mai tươi sáng.
Sau khi phiên chợ chiều đã vãn, bóng tối chưa buông xuống nhưng những cuộc đời bóng tối đã hiện ra. Đó là mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ tranh nhau nhặt nhạnh tất cả những gì có thể dùng được, một thanh nứa, thanh tre hay bất kì cái gì. Đó là cuộc sống cùng khổ của chúng với những thứ mà người ta đã vứt đi.
Vào đêm thì có cuộc đời của mẹ con chị Tí với cái hàng nước đơn sơ. Ban ngày thì hai mẹ con mò cua bắt tép; từ chập tối cho đến đêm thì bán nước chè tươi, điếu thuốc lào cho dăm ba phu gạo, phu xe, mấy chú lính trong huyện hay người nhà thầy thừa, thầy lục, có khi chờ mãi mà chẳng thấy ai ra. Hai mẹ con vừa xách, vừa vác trên lưng, vừa đội trên đầu… vậy mà chỉ vẻn vẹn có cái chõng tre, vài mặt ghế, cái ấm mấy cái chén, chiếc điếu cày, nắm đóm… Thằng con loay hoay nhóm lửa nấu nồi nước chè. Nước, thuốc đã sẵn sàng. Chị Tí luôn tay phe phẩy túm lá chuối khô, bất giác thốt lên nỗi nóng lòng sốt ruột trước cảnh ế ẩm: Giờ muộn thế này mà họ chưa ra nhỉ? Dù rằng chị đã biết trước: Ối chao, sớm với muộn thì có ăn thua gì! Câu nói ngẫu nhiên mà giúp người đọc hình dung tận đáy cảnh sống của mẹ con chị, đã cơ cực mà chỉ còn trông cậy vào sự rủi may, một sự trông chờ cầm chắc là chẳng mấy hi vọng.
Nhưng mẹ con chị Tí vẫn có một chiếc ghế để ngồi, một ngọn đèn để soi sáng; còn gia đình bác xẩm thì nằm ngồi ngổn ngang ngay trong chiếc chiếu rách trải trên mặt đất. Thằng con nhỏ bò ra đất, cái thau sắt trắng chờ tiền thưởng trống trơn để trước mặt. Im lìm như một gia đình bò sát, nếu không có mấy tiếng đàn bầu bần bật nổi lên góp chuyện. Rồi sau đó không khách, không hát, không tiền, họ lăn ra ngủ luôn trên đất.
Còn cảnh sống bí hiểm của bà cụ Thi, một bà cụ già hơi điên. Bà đến quán của chị em Liên với tiếng cười khanh khách quen thuộc, mua cút rượu (xị rượu), khen Liên rót đầy rồi ngửa cổ uống cạn sạch, lảo đảo bước đi, lẩn vào bóng tối và tiếng cười khanh khách nhỏ dần.
Ba cảnh đời trên của lũ trẻ ven chợ, của mẹ con chị Tí, của gia đình bác xẩm đều bị bóng tối của sự nghèo nàn, khốn khó phủ lên đen ngòm. Sự thê thảm lồ lộ, chẳng ẩn giấu chút gì. Riêng bà cụ Thi vẫn có tiền uống rượu, vẫn nói năng ôn tồn, âu yếm với cô bé bán hàng nhưng rượu thì nốc một hơi, lại cười khanh khách, không biết vì duyên cớ gì? Đêm đêm, chỉ thấy bà từ trong làng đi ra rồi lại lẩn vào bóng tối phía làng. Oan ức gì chăng? Buồn khổ gì chăng? Không rõ, nhưng chắc chắn bóng tối đã đè nặng lên cuộc đời bà, góp thêm một hình ảnh vừa lạ lùng vừa đáng sợ vào những cảnh đời – bóng tối ở phố huyện này.
Bác Siêu bán phở không xa nhưng cũng không gần các cảnh đời kia. Bác như dấu gạch nối giữa hạng người bần cùng với những hạng người khác trong phố huyện. Họ thấp thoáng ở nơi có người cầm đèn lồng đi đón bà chủ ở ga về, nơi có hội bài tổ tôm sát phạt nhau hàng chục bạc mà hạng người khốn khổ nằm mơ cũng không thấy nổi, nơi có lính tráng đánh trống thu không và mõ cầm canh. Cuộc sống khá giả của họ như tấm phông làm nổi bật những cảnh đói nghèo, như ánh sáng tương phản với bóng tối.
Trong bối cảnh của truyện, nét nào cũng tối đen: lũ trẻ ven chợ như loài dơi chờ xẩm tối mới mò ra, tìm cái sống ở bất cứ cái gì người ta vứt đi. Mẹ con chị Tí hàng nước kiếm sống ở sự chờ đợi rủi may. Gia đình nhà xẩm hầu như sắp lẩn mình vào đất. Bà cụ Thi hơi điên chứa chất một góc tối om trong sâu kín tâm hồn. Nhập chung lại thì toàn là những cảnh đời – bóng tối. Liệu còn le lói chút uớc mong nào không? Khung cảnh phố huyện giờ đây thu nhỏ lại nơi hàng nước của chị Tí, bởi ở đó còn có ngọn đèn tù mù, trong khi cả phố tối om. Chừng ấy con người trong bóng tối mong đợi một cái gì đó tươi sáng cho cuộc sống nghèo khổ của họ.
Trong bức tranh phố huyện lúc đêm về có một sự hoà trộn đầy dụng ý giữa ánh sáng và bóng tối. Ánh sáng thì chỉ là khe sáng, chấm sáng, hột sáng,… mà bóng đêm thì vừa dày đặc vừa mênh mông. Tối hết cả con đường ra sông, con đường vào làng, các ngõ càng thẫm đen hơn nữa. Tối đến mức dường như tiếng đàn bầu của bác xẩm và tiếng trống cầm canh của phố huyện tưởng chừng cũng không vang lên được. Điều này khiến người đọc phần nào hình dung ra những kiếp sống chìm khuất, mỏi mòn gần như bị bỏ quên nơi ga xép của phố huyện nghèo nàn, đồng thời gợi một niềm thương cảm sâu xa.
Diễn biến tâm trạng hai đứa trẻ trước khung cảnh thiên nhiên và bức tranh đời sống nơi phố huyện được nhà văn Thạch Lam miêu tả tỉ mỉ và ẩn chứa nhiều ý nghĩa.
Chưa nói tới dụng ý của tác giả khi xây dựng hình tượng hai đứa trẻ và lấy đó làm nhan đề cho tác phẩm; hãy cứ biết đó là hai đứa trẻ với những đặc điểm của lứa tuổi thiếu nhi. Chị đã biết quý mến và hãnh diện với cái dây xà tích bạc vì nó tỏ ra chị là người con gái lớn và đảm đang. Như thế thì chưa hẳn là lớn mà vẫn vương chút trẻ con. Biết thay mẹ tính toán tiền nong, sắp xếp hàng họ, biết thương em, đó mới thật là cô gái lớn ngoan hiền.
Ngồi trước cửa hàng, Liên lặng lẽ cảm nhận khung cảnh chiều quê, tuy buồn bã nhưng thân thuộc, gần gũi và cảm thông, chia sẻ với những con người sống lay lắt nơi phố huyện nghèo.
Hai chị em trước đây sống ở Hà Nội cùng gia đình, nhưng vì cảnh nhà sa sút nên mới dọn về đây. Mẹ mở một quán tạp hoá nhỏ xíu giao cho hai chị em trông nom. Ban ngày bán hàng, ban đêm đóng cửa cài then cẩn thận. Chập tối, mẹ ghé qua thăm, dặn các con phải thức đến lúc xe lửa đi qua mới được ngủ. Vì thế nên hai chị em Liên đã quen thuộc với con người và cảnh vật trong phố huyện, đã hoà nhập vào cuộc sống nơi này một cách hồn nhiên.
Trước hết là quen với bóng tối. Hà Nội nhiều đèn quá, một vùng sáng rực và lấp lánh, còn ở đây thì ngược tại. Màn đêm buông xuống, mắt Liên ngập dần bóng tối và Liên không hiểu sao, thấy buồn. Dần dần, Liên quen không sợ bóng tối mà còn chú ý đến những gì diễn ra và chứa đựng trong đó: thấy những hòn đá nhỏ trên đường một bên sáng một bên tối; cảm nhận mùi âm ẩm lẫn mùi cát bụi lúc chợ đã vãn mà tưởng là mùi riêng của đất này. Nhìn lũ trẻ nghèo nhặt nhạnh bất cứ cái gì trên nền chợ mà hai chị em động lòng thương. Khi mẹ con chị Tí mang vác cả hàng nước ra, Liên lặng lẽ quan sát từng cử chỉ một. Nghe tiếng cười khanh khách là Liên nhận ngay ra bà cụ Thi. Nhìn bọn trẻ nô đùa, An cũng muốn nhập bọn nhưng sợ trái lời mẹ dặn. Thấy một chấm lửa hiện ra rồi mất đi là hai chị em biết gánh phở bác Siêu thấp thoáng đằng xa. Lúc mọi nơi đều đã tối đen, ánh sáng từ ngọn đèn trong quán toả ra chỉ là vài hột sáng lọt qua phên nứa, thì hai chị em đã buồn ngủ ríu cả mắt. Khi đoàn tàu đã đi qua thì hai tâm hồn trẻ thơ ấy cũng rơi vào giấc ngủ tịch mịch và đầy bóng tối, giống như mọi người nghèo khổ khác ở phố huyện này.
Đêm nào Liên và An cũng cố thức cho tới giờ xe lửa chạy qua theo đúng lời mẹ dặn, nhưng còn vì một lí do đặc biệt khác. Có phải là các em chỉ đơn giản muốn được nhìn chuyến tàu, một hoạt động cuối cùng của đêm khuya? Không phải! Còn có cái gì đó sâu xa hơn nhiều đối với hai chị em và đám người khốn khổ ở phố huyện này. Với hai đứa trẻ, đoàn tàu là một thế giới khác hẳn với cuộc sống tù túng, tẻ nhạt hằng ngày của chúng.
Có lẽ chính vì vậy mà hình ảnh chuyến tàu được Thạch Lam tập trung miêu tả một cách tỉ mỉ, kĩ lưỡng qua tâm trạng chờ mong và cảm nhận của hai chị em Liên và An. Cách quan sát, miêu tả của Thạch Lam tinh tế và giàu tính nghệ thuật. Tác giả quan sát, miêu tả hình ảnh đoàn tàu đêm từ Hà Nội về theo trình tự từ xa đến gần bằng nhiều giác quan, bằng sự đan xen giữa hồi ức và thực tại.
Đoàn tàu chưa tới nhưng đã được báo trước bằng ánh đèn của người gác ghi và tiếng còi tàu từ xa vẳng lại. Liên trông thấy ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất như ma trơi, rồi nghe thấy tiếng còi xe lửa trong đêm khuya kéo dài ra theo ngọn gió. Sau đó, nghe thấy tiếng dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi, kèm theo một làn khói bừng sáng trắng lên đằng xa… Thế rồi tàu rầm rộ đi tới, các toa đèn sáng trưng, những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh. Cuối cùng là cảnh đoàn tàu đi xa dần, mất hút trong đêm tối mênh mông, để lại những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt, cái chấm nhỏ của chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuất sau rặng tre…
Có một sự tương phản nổi bật giữa hình ảnh đoàn tàu – một thế giới khác mà chuyến tàu đêm mang qua phố huyện trong chốc lát và hình ảnh của sự trở về trạng thái lặng lẽ, tối tăm, không thay đổi nơi phố huyện. Một bên là sự hoạt động nào nhiệt cuối cùng của đêm và một bên là sự im lặng mênh mông của đêm tối, trong giấc ngủ và cả trong sự lãng quên. Chuyến tàu đêm sáng rực, vui vẻ và huyên háo, đầy hấp dẫn nhưng lại chỉ thoáng qua trong chốc lát rồi lại trả cuộc sống phố huyện về trạng thái mênh mang, yên lặng và đầy bóng tối. Điều đó dường như làm cho nỗi buồn càng thêm thấm thía trong tâm hồn hai đứa trẻ; để lại cho chúng sự khát khao, nuối tiếc không nguôi. Gần như đã thành nếp, những người dân nơi phố huyện chỉ chấm dứt hoạt động của một ngày khi chuyến tàu đêm đã đi xa.
Đối với chị em Liên, đoàn tàu đến từ Hà Nội gợi lại những kỉ niệm đẹp, nơi hai chị em đã sống thời thơ ấu êm ấm và sung sướng. Đó là cuộc sống ở một thời chưa xa, hoàn toàn khác với cuộc sống ở phố huyện buồn tẻ và nghèo nàn này.
Đoàn tàu còn là hình ảnh của tương lai, nó khiến những người nghèo khổ hình dung ra một thế giới giàu sang, nhộn nhịp, đầy âm thanh và ánh sáng.
Đối với người đọc, vẻ đẹp của đoàn tàu và thái độ háo hức, sung sướng đến lặng người của hai đứa trẻ khi ngắm đoàn tàu không chỉ đem đến một thoáng vui mà còn gợi thật nhiều bâng khuâng, thương cảm.
Đúng là hai đứa trẻ vui vì niềm khao khát, đợi chờ vừa được thỏa mãn. Nhưng đoàn tàu ấy lại thuộc về một thế giới quá xa xôi và nó càng sáng rực, vui vẻ, huyên náo thì càng làm cho khung cảnh nơi phố huyện trở nên tăm tối, buồn tẻ và chìm lặng. Chỉ có hình ảnh đoàn tàu lướt qua hằng đêm mà những người dân phố huyện ai cũng nôn nao chờ đợi. Người đọc cùng Thạch Lam thông cảm với tâm trạng của lớp người sống lầm lũi trong tăm tối, nghèo khổ. Tuy thế, truyện cũng nhen nhóm trong lòng người đọc hi vọng vượt lên sự tẻ nhạt, tầm thường của cuộc sống hằng ngày.
Nghệ thuật miêu tả và giọng văn của Thạch Lam trong truyện Hai đứa trẻ thật độc đáo. Tác giả miêu tả rất tinh tế sự biến đổi của cảnh vật và diễn biến tâm trạng của nhân vật. Cách miêu tả này góp phần quan trọng tạo nên không khí cho tác phẩm.
Có sự tương ứng giữa thế giới ngoại cảnh (bức tranh phố huyện) với thế, giới nội tâm nhân vật (tâm trạng cô bé Liên) trong từng thời khắc: cảnh chiều buông thì người buồn man mác; cảnh đêm xuống thì người đợi chờ khắc khoải; cảnh đêm khuya, chuyến tàu đi qua thì người buồn tiếc, mơ tưởng, khát khao,…
Tuy nhiên, ở một vài đoạn văn, tác giả miêu tả thế giới ngoại cảnh và thế giới nội tâm không thuần nhất mà có sự pha trộn vui buồn khó tả. Những hình ảnh êm đềm thi vị hoà trộn với hình ảnh nghèo nàn lam lũ; ánh sáng hoà trộn vào bóng tối; cái huyên náo chốc lát hoà vào cái im lặng mênh mông… Tất cả những cái đó kết hợp với nhau thật hài hoà, tự nhiên, làm nổi bật tâm trạng của nhân vật.
Giọng văn Thạch Lam nhẹ nhàng, khách quan nhưng ẩn chứa một tình cảm xót thương thực sự đối với những con người nghèo khổ. Tình cảm nhân đạo của tác giả rất đáng trân trọng. Ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật của tác giả tinh tế mà vẫn rất tự nhiên, khiến người đọc khó quên.
Truyện ngắn Hai đứa trẻ là lời gợi nhắc về tình cảm gắn bó với nguồn cội, quê hương, với những kí ức đẹp mà buồn. Đó là tấm lòng nhân ái của nhà văn đối với những kiếp người nghèo khổ sống lam lũ, quẩn quanh, đơn điệu, mỏi mòn; là niềm trân trọng đối với từng mong ước nhỏ nhoi của những con người bất hạnh bị bỏ quên nơi ga xép của những chuyến tàu thời gian vô định.
Đọc truyện ngắn Hai đứa trẻ, ta thấy đằng sau vẻ chân chất, dung dị lại là sự tinh vi, sâu sắc, rất đúng với phong cách Thạch Lam. Đi vào tác phẩm của Thạch Lam là đi vào thế giới tâm tình. Tình tiết của truyện đơn sơ nhưng chính những cảm nghĩ chân thành của nhà văn đối với những mảnh đời khốn khó khiến cho người đọc xúc động. Nhà văn Nguyễn Tuân đã nhận xét: Truyện “Hai đứa trẻ" có một hương vị thật là man mác. Nó gợi một nỗi niềm về quả vãng, đồng thời cũng dóng lên một cái gì còn ở trong tương lai… Nơi cái thế giới quan của một đôi trẻ ở một phố quê, hình ảnh đoàn tàu và tiếng còi tàu đã thành một thói quen của cảm xúc và của ước vọng. Đọc “Hai đứa trẻ" thấy bận bịu vô hạn về một tấm lòng quê hương êm mát và sâu kín. (Tuyển tập Thạch Lam, NXB Văn học – Hà Nội – 1998)
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
Bảng tin