

Thơ ca làm cho tất cả những gì đẹp nhất trên đời trở thành bất tử” (Shelly)
Bằng trải nghiệm văn học, hãy bàn luận về ý kiến trên.
Hãy luôn nhớ cảm ơn và vote 5*
nếu câu trả lời hữu ích nhé!
“Thượng Đế đã chết” – lời khẳng định của triết gia Friedrich Nietzsche như hồi chuông thức tỉnh một nền văn hóa tôn giáo Tây phương thời đó, đang bị tha hóa và lún sâu dần vào chủ nghĩa Hư vô. Để rồi hôm nay, còn đó những đức tin bị xói mòn, những cái đẹp đánh rơi, đời sống tâm hồn bị quên lãng trước thời đại vật chất lên ngôi… Liệu mọi thứ sẽ tiến tới huỷ diệt? Đâu là cái nôi nuôi dưỡng, là đôi cánh bay cao cứu rỗi những giá trị tốt đẹp của con người? Phải chăng, nghệ thuật – như nhà văn Anh Shelly phát biểu – sẽ làm tròn sứ mệnh của nó: “Thơ ca làm cho tất cả những gì đẹp nhất trên đời trở thành bất tử”?
“Những gì đẹp nhất trên đời” là các giá trị có ý nghĩa tồn tại trong đời sống con người, hoặc hiển lộ trước mắt, hoặc khuất lấp sâu kín đòi hỏi người ta phải tinh tế mới phát hiện và thấu triệt. Làm cho những giá trị ấy trở nên “bất tử” – tức mang sức sống mãnh liệt và bền bỉ theo thời gian, trong lòng người, ấy là sứ mệnh mà thơ ca hướng tới, là thiên chức của mỗi người cầm bút trên hành trình nặng lòng với văn chương. Đời người ta là hữu hạn. Chính con người cũng phải chấp nhận giới hạn của thời gian, thừa nhận quy luật tất yếu của tạo hoá về một sự sống có điểm dừng. Bởi vậy, đặt ra vấn đề “bất tử hoá” những gì đẹp nhất trên đời với một thể loại văn học, Shelly khẳng định bản chất của thơ ca, đồng thời thách thức những người nghệ sĩ tài hoa trong cuộc chiến với sự đào thải trong nghệ thuật và sự khắc nghiệt của các giá trị khác trong cuộc đời.
Thơ ca “bất tử hoá” những giá trị tốt đẹp trong đời sống xã hội...
Văn học là mĩ cảm về cái đẹp. Mảnh đất hiện thực cuộc sống muôn màu là kho tàng quý báu dắt lưng vốn mỗi người nghệ sĩ trên hành trình sáng tạo, nhưng anh không phải người thợ chụp cho bằng hết mọi hiện hữu của cuộc đời. “Cái đẹp man mác khắp vũ trụ” – cái đẹp tinh vi và diệu vợi, những giá trị đáng trân quý thường không hiển lộ trước mắt đòi hỏi nhà văn phải “phát hiện cái đẹp chính ở chỗ mà không ai ngờ tới, tìm cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật” (Hoài Thanh) để đem đến cho bạn đọc những khám phá mang tính phát hiện về đời sống. Cái đẹp không chỉ là đối tượng của thơ ca. Chính cái đẹp cũng khơi nguồn ở chủ thể những cảm hứng sáng tạo không ngờ, rung động đến xúc cảm sâu kín trong lòng anh, thôi thúc anh cầm bút và viết đôi điều về cuộc đời. Người xưa thường “tức cảnh sinh tình”. Chẳng thế mà người ta thử tài nhau bằng những bài thơ ứng đối, thích thú cảnh thiên nhiên mà nên tình nên ý như Hồ Chí Minh đúc kết: “Cổ thi thiên ái thiên nhiên mỹ/ Sơn thuỷ yên hoa tuyết nguyệt phong”. Cái đẹp vốn hiện tồn trong khoảnh khắc người thơ “thiên ái” ấy bỗng trở thành bất tử, bởi thơ ca lưu tồn đến ngàn đời. Chẳng thế mà có một “Điểu minh giản” đưa người về chốn Thiền thi tĩnh mịch “Nguyệt xuất kinh sơn điểu/ Thời minh tại giản trung” (Vương Duy), một “Côn Sơn ca” vẫn vang âm tâm sự thi nhân: “ Côn Sơn suối chảy rì rầm/ Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai” (Nguyễn Trãi), một bức tranh làng cảnh nhân tình Việt Nam trong thơ Nguyễn Khuyến, hay một núi non hùng vĩ “Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống” theo bước hành quân anh bộ đội cụ Hồ… Cái đẹp của khoảnh khắc ấy chẳng thể trường tồn vĩnh cửu theo biến chuyển thời gian, nhịp sống thời đại. Nhưng bằng sức mạnh của nghệ thuật, nó có thể vượt ranh giới không gian thời gian mà hoá thành bất tử: “Văn học nằm ngoài các định luật của sự băng hoại. Chỉ mình nó không thừa nhận cái chết.” (Sedrin)
Tự nhiên không phải cái đẹp duy nhất của cuộc sống. Chính những giá trị thuộc về văn hoá, về truyền thống, bản sắc của mỗi dân tộc mới làm nên con người mỗi quốc gia. Nhà văn không xuất thân từ môi trường chân không, mảnh đất quê hương chính là nơi trao anh sự sống và là chốn anh quay về tựa nương, vun đắp. Mỗi mạch máu, nhịp đập đều ít nhiều sức sống của dân tộc, của thời đại, của những kế thừa ngàn năm. Ngòi bút anh trăn trở, khao khát đưa văn hoá mình thành những giá trị của thì hiện tại, tiếp nối mạch nguồn và duy trì sự sống. Với Nguyễn Bính – nhà thơ với chất “quê mùa” thứ thiệt cũng có những cảm thức riêng mình về cái đẹp của văn hoá trong thời đại khủng hoảng các giá trị: một cái tôi lỡ dở của kẻ lạc loài bất an với thời cuộc; nên khát khao lắm: “Hoa chanh nở giữa vườn chanh/ Thầy u mình với chúng mình chân quê” . Người thơ đã gắn chặt hồn mình với hồn dân tộc, bấu víu lấy những gì là chân, là thật, là gần gũi mộc mạc nhất để không trôi theo dòng ngoại lai ồ ạt, nên thế giới thơ cũng thật quê làm sao! Như những con sóng va đập giữa hai bờ nông thôn và thành thị, Nguyễn Bính gợi lòng ta lại với “bến sông, quán lẻ, mưa dầm”, thương nhớ “hoa xoan phơi phới bay” và cả miếng trầu hàng cau thắm duyên vợ chồng ấy nữa…
Con người ta chỉ có thể tả vỏ của cái khác và phơi ruột của chính mình!
Có cả một “ruột” Nguyễn Bính trong cái “vỏ” “Tương tư”. Có phải chăng đó chỉ là nỗi tương tư nghìn đời của đôi lứa tự tình, là xúc cảm thầm kín của những trái tim đang nhớ, đang thương, đang yêu thầm một kẻ? Phải chăng “thôn Đoài – thôn Đông”, “tôi – nàng”, “bên ấy – bên này”, “trầu – cau”… đơn thuần là khát vọng hạnh phúc lứa đôi diễn giải cho tâm tình kẻ tương tư nọ? Và cái “ngày qua ngày”, cái “cách một đầu đình”, câu hỏi “bao giờ bến mới gặp đò” chỉ là sự kể lể diễn giải khoảng cách thời gian, không gian tâm lý, cái nghịch lý trữ tình trong xúc cảm thăng hoa của kẻ yêu? Có lẽ là không. Ẩn sau tiếng nói tình tự, là sự cất tiếng của cái tôi lãng mạn – cái tôi cá nhân đơn côi bơ vơ chỉ có thể hóa giải khi tìm được sự đồng điệu và nơi nương náu cho tâm hồn. Bi kịch của cái kiếp “sống lìa đàn” là không có tận cùng. Bởi phù hoa huyễn hoặc thì chối bỏ người: “Phù hoa thôi hết mộng huy hoàng/Sớm nay sực tỉnh sầu đô thị”; mà một lần “lỡ bước sang ngang” thì kẻ hồi hương và đất cũ cũng có những ngăn cách vô hình đầy phũ phàng:
“Không còn ai ở lại nhà
Hỏi còn ai nữa để hoa đầy vườn
Trăng đầy ngõ, gió đầy thôn
Hỏi về quê cũ có buồn không anh?”
Nguyễn Bính là cái lỡ dở muôn đời ấy. Trang thơ thấm trang đời, để rồi mỗi chữ viết ra là một lần se thêm cái tơ “duyên bút mực”, dẫu long đong nhưng là quy luật của đời văn chương vậy!
Thế giới nghệ thuật thể hiện quan niệm, thế giới quan và nhân sinh quan của người cầm bút như thế, thậm chí là cả những đau đớn, những giọt nước mắt của nhà thơ trước sự nhoè mờ của cái đẹp trong cuộc đời. Bảo rằng Nguyễn Bính là “quê”, ấy là mặt cảm xúc trữ tình và bút pháp nghệ thuật, chứ tư tưởng thì chẳng cũ, chẳng quê chút nào! Những nhà văn, nhà thơ lớn bao giờ trước hết cũng phải là người nghệ sĩ của dân tộc mình. Thơ Êxênhin sống mãi trong lòng người đọc bởi thơ ông đã thấm đẫm tâm hồn Nga, tính cách Nga. Những trang văn của Kawabata với “Xứ tuyết”, “Cố đô” Ngàn cánh hạc,... sẽ chẳng xúc động lòng người đến thế nếu không phải thắm đượm trong đó cái hồn dân tộc Nhật, cái chất văn hoá Nhật truyền thống tiềm ẩn trong mỗi nếp nghĩ nếp làm, mỗi tâm hồn tính cách, mỗi nghi thức trà đạo... Thơ Nguyễn Bính dù không có những tìm tòi cách tân đột phá, nhưng vẫn là một giá trị có ý nghĩa, bởi nó nuôi dưỡng và “bất tử” những gì đẹp nhất, đáng trân quý nhất của thời ấy, bây giờ… Bởi “Nguyễn Bính đã đánh thức người nhà quê ẩn náu trong ta” (Hoài Thanh) – một chiều cả gió nọ, hồn quê tình quê bám đầy trái tim ta!
Thơ ca “bất tử hoá” những giá trị tốt đẹp trong tâm hồn người…
Cái làm nên con người xã hội là những phức tạp của đời sống tinh thần. Mỗi con người là một tiểu vũ trụ với thế giới riêng tư, những bí ẩn mà khoa học chưa thể giải thích tường minh, còn nghệ thuật thì đang nỗ lực cắt nghĩa ở những chiều sâu, bề xa sâu kín nhất. Để rồi những giá trị Người, những xúc cảm Người đi vào trong thơ hiện lên không chỉ mang tính phổ quát toàn nhân loại, mà còn là cái đẹp rất đỗi cụ thể, cá nhân, gần gũi và chân thực. Cái đẹp là gì nếu không phải là tình yêu – thứ cứu rỗi con người thoát khỏi tầm thường vụ lợi mà trở nên tâm hồn nhân hậu cao thượng: “Tôi yêu em chân thành, đằm thắm/ Cầu cho em được người tình như tôi đã yêu em” (Puskin); tình yêu – thứ xúc cảm nhân bản khó nắm bắt nhưng lại làm nên “một chiều” người ta được sống thực sự với chính mình: “Làm sao cắt nghĩa được tình yêu/ Có nghĩa gì đâu một buổi chiều!” (Xuân Diệu); và rồi, cũng tình yêu – làm cho trái tim thổn thức người phụ nữ biết bản lĩnh hướng tới lý tưởng cuộc đời mình: “Sông không hiểu nổi mình/ Sóng tìm ra tận bể” (Xuân Quỳnh). Mọi cung bậc của tình yêu đi vào thơ ca thành thứ cảm âm riêng, mang tần số riêng, cộng hưởng với những rung động trong tâm thức riêng tư mỗi con người. Chính tình yêu – cái đẹp ấy đánh thức cái đẹp của lòng người. Đến lượt nó, đi vào thơ ca, hoá thành biểu tượng bất tử! Cái Đẹp lại là gì, nếu không phải là tình cảm gia đình thiêng liêng và sâu sắc đi sâu vào tiềm thức con người, là bếp lửa sớm tối bà “ấp iu nồng đượm”, là lời ru “cánh cò bay lả” những ngày con ấu thơ mà trọn kiếp con người con chẳng thể hiểu hết, là lời mộc mạc chân tình nhưng thấm thía mỗi “người đồng mình” “nói với con” trước những chuyến đi xa…? Và cái Đẹp là gì, nếu chẳng phải những tâm tình rất thực của tấm lòng người cha với đứa con bé bỏng trong hoàn cảnh éo le rất đời:
“Con ơi con hãy tha thứ cho cha
Cha chẳng thể nào sống cùng mẹ được
Đời cha nắng gắt
Mẹ con cần suối mát đời vui
Con lớn khôn trên đời
Hãy yêu thương mẹ
Và hãy hiểu cho cha”
Thơ Lưu Quang Vũ bao giờ cũng rất riêng như thế. Tâm sự của một gia đình đổ vỡ, một hạnh phúc chia đôi ư? Nó vẫn rất đẹp, nếu như người ta sống đẹp, nghĩ đẹp. Thơ ca đã thực hiện được sứ mệnh của nó, bảo lưu những điều đẹp đẽ nhất của đời sống, của hồn người. Để rồi một lúc nào đó trong đời, khi trái tim dậy sóng cần nơi vỗ về ủi an, thơ ca lại trở thành liều thuốc hữu hiệu nhất. Bởi cái đẹp bao giờ cũng mang sức mạnh cảm hoá, và nhà văn thì là "Người vẫn còn mang vết thương đã toan đi chữa vết thương cho người khác. Tôi nghĩ nghề viết và người viết cũng đơn giản vậy, chữa lành, an ủi những vết thương của người đời để làm dịu vết thương của chính mình.” (Nguyễn Ngọc Tư)
Có nhiều cách để “bất tử” cái đẹp. Không phải bao giờ lời khẳng định chắc nịch cũng đủ sức thuyết phục và có sức mạnh thắng thế. Đôi khi văn học phải khẳng định bằng cách đối đầu, thách thức, phủ định, hoặc chất vấn. Làm gì có cái gì đơn giản khi đứng trước bể đời và lòng người. Cái Thiện và cái Ác, thiên thần và ác quỷ, cái hôm qua, hôm nay, cái mai sau, cái bề trước, bề sau bề xa hay cái bày ra trước mắt và cái khuất lẩn tranh sáng tranh tối... Nếu không có tài năng, nhà văn không thể phân biệt cái đẹp – xấu. Nếu không đủ bản lĩnh, anh ta cũng khó lòng thể hiện phát hiện khám phá riêng của mình về cái đẹp trên trang giấy, và lên tiếng cứu lấy cái đẹp với thời đại. Một tài năng lớn, một phong cách thực sự chính là những kẻ biết viết và dám viết thế đó. “Không có lối đi chung nào cho hai nhà thơ”- khẳng định của Thanh Thảo cũng là lời gọi dẫn người viết gia nhập vào hành trình khổ hạnh đi “bất tử cái đẹp” của văn chương: sáng tạo nên lối đi của riêng mình. Bản ngã riêng ấy chỉ xuất hiện khi tư tưởng nhà văn đạt đến độ chín, ngòi bút sắc sảo và cá tính hơn trong nghệ thuật thể hiện. Thế giới gốc – nguyên mẫu vốn chỉ có một. Muốn nắm bắt “cái đẹp man mác vũ trụ”, anh không thể đứng nguyên một góc nhìn nhìn đời bằng con mắt phàm phu thông thường, trùng lặp người xưa. Phát hiện về cái Đẹp thường xuất hiện trong hệ quy chiếu khác, tư duy khác và một tâm hồn cởi giải những định kiến về đời sống và con người. Cái Đẹp cũng chỉ xuất hiện khi người ta chiến thắng nỗi sợ cá nhân và đủ can đảm đối lập với chuẩn mực trở thành tất yếu của đám đông đương thời. Một Hồ Xuân Hương đầy bản lĩnh với độc đáo có vậy mới xứng danh “thơ Quỷ”, trở thành “Bà chúa thơ Nôm”. Nếu thơ Xuân Hương cũng nhất mực tao nhã trang trọng như thơ Bà Huyện Thanh Quan, hay yểu điệu sướt mướt như lời Ngọc Hân công chúa “Ai tư vãn”, hoặc đi theo thơ Đoàn Thị Điểm với những ước lệ tượng trưng, thì chắc chắn không thể có thứ thơ như “rau vườn mới hái” làm lòng người nể phục. Một ông Tú như “cây sầu đông ngoài tươi mà trong rầu héo”, với những tiếng cười buốt sắc như thuỷ tinh vỡ, cào nát bộ mặt giả dối ô trọc của chế độ thực dân nửa phong kiến ngay trên mảnh đất Thành Nam đã phá vỡ cái chuẩn chung của thơ ca Trung Đại, để rồi “những lời trào lộng kiêu bạc” “lệch chuẩn” không giấu nổi cái “tủy cốt chung tình” của một tấm lòng nặng nợ với đời. Đi khỏi cái chuẩn chung, thi nhân khẳng định tiếng thơ riêng trên văn đàn, tiếng thơ như một lời chất vấn, một sự xác lập mạnh mẽ. Những cây bút ấy khẳng định quyền uy, sức sống của cái đẹp vô cùng nhân bản: ý thức cá nhân của con người. Để rồi chính sự tự ý thức của những con người tiến bộ ấy cũng là cái Đẹp được người đời trân trọng và tụng ca!
Thơ ca bất tử cái đẹp, suy cho cùng là để hướng thiện, hướng thiện con người, “dẫn đường đến xứ sở của cái đẹp” (Pautopxki). Cho thấy đời vô thường và người bất toàn, văn học dù nói cái “bi kịch” cũng là đích đến “thanh lọc” (Aristole) mà thôi. Không khuyên răn con người níu lấy cái chấp niệm ngoài mình, thơ thiền dẫn đường tới hiện thực nên có: hiện thực của tâm hồn mình. Con người hãy tự đốt đuốc mà đi, thắp sáng ngọn lửa trong tim mà kiếm tìm “chân như”, truy cầu bản thể, phát hiện Con Người mà triết gia Điogen thời xưa nung nấu, tìm ý nghĩa sống đích thực mà kịch Shakespeare sau này hãy còn ám ảnh: “Tobe or not tobe”. Vượt qua quy luật hằng thường:
“Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai”
mà hội nhập tiểu vũ trụ cá nhân vào đại vũ trụ để sống thuận theo quy luật bằng bản tâm trong sạch bất diệt, mỗi người tất sẽ tìm thấy “đoá mai” cuộc đời mình. Đoá mai nơi “đình tiền tạc dạ” hay chính là đoá mai của thiền tâm bất hoại chẳng phải vẫn luôn hiện hữu tự thuở “nhân chi sơ” đấy sao? Trước cát bụi của vô thường, nghệ thuật đánh thức và bung nở những giá trị trân quý. Hơn cả thức tỉnh, nó là cuộc hành hương trở về với thiện căn của mỗi người! Cái đẹp – vốn dĩ vẫn tiềm tàng trong tâm hồn mỗi người đấy thôi!
Thơ ca bản thân nó là cái đẹp. Xúc cảm thẩm mĩ, tư tưởng thẩm mĩ đem đến cho bạn đọc những mĩ cảm chân chính. Điều này không thể có nếu không có những người viết chân chính, và nếu thiếu đi những bạn đọc chủ động trên hành trình tìm kiếm, thưởng thức, đối thoại với cái đẹp nơi nghệ thuật.
Sau cùng, hãy tin cái đẹp bất tử:
“Lorca bay sang ngang
trên chiếc ghi ta màu bạc
li-la, li-la, li-la…”
(Thanh Thảo)
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
![]()
Bảng tin