

Viết bài nghị luận So Sánh 2 tác phẩm Nhà Mẹ Lê và Làm Mẹ
Hãy luôn nhớ cảm ơn và vote 5*
nếu câu trả lời hữu ích nhé!

Đây là câu trả lời đã được xác thực
Câu trả lời được xác thực chứa thông tin chính xác và đáng tin cậy, được xác nhận hoặc trả lời bởi các chuyên gia, giáo viên hàng đầu của chúng tôi.
Nhà văn Pautopxky từng nói: “Văn học đối với tôi là một hiện tượng đẹp đẽ nhất trên thế giới.” Văn học, bằng sức mạnh ngôn từ, đã mở ra những chân trời cảm xúc mới, kết nối con người qua những câu chuyện tưởng chừng bình dị. Trong dòng chảy văn học Việt Nam, Thạch Lam và Nguyễn Ngọc Tư là hai tên tuổi sáng giá, mỗi người đã thổi hồn vào tác phẩm của mình những nét độc đáo không thể nhầm lẫn. Hai đoạn trích Nhà mẹ Lê và Làm mẹ là minh chứng cho tài năng ấy, khi cả hai cùng viết về tình mẫu tử, nhưng với lối đi riêng đầy sáng tạo và sâu sắc.
Thạch Lam (1910–1942) là một trong những nhà văn xuất sắc của văn học Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Ông nổi bật với quan niệm văn chương nhân đạo, giàu tính nhân văn và thường tập trung khai thác thế giới nội tâm của con người trong những hoàn cảnh đời thường. Truyện ngắn Nhà mẹ Lê là một tác phẩm tiêu biểu, khắc họa sâu sắc cảnh đời cùng cực của những người dân nghèo ngụ cư, đồng thời thể hiện niềm thương cảm và trân trọng vẻ đẹp nhân cách trong hoàn cảnh éo le.
Nhà mẹ Lê là câu chuyện về cuộc sống khốn cùng của gia đình mẹ Lê, một người phụ nữ nghèo sống ở xóm ngụ cư cùng mười một đứa con trong căn nhà tồi tàn. Gia đình đông con, cuộc sống của mẹ Lê càng thêm phần cơ cực. Dù chăm chỉ làm mướn, bà vẫn không đủ nuôi các con, nhất là khi mùa đông đến, công việc càng trở nên khan hiếm. Để cứu con khỏi cảnh đói rét, mẹ Lê đã hai lần tìm đến nhà ông Bá - một người giàu có trong làng - xin vay ít gạo. Lần thứ hai, bà bị ông Bá thả chó ra cắn. Với vết thương nặng, mẹ Lê lên cơn sốt rồi mất trong đêm đông, để lại mười một đứa trẻ bơ vơ, không nơi nương tựa. Qua gia cảnh nhà mẹ Lê, Thạch Lam tái hiện bức tranh hiện thực đầy ám ảnh về cuộc sống nghèo túng của tầng lớp lao động trong xã hội phong kiến. Cái chết của mẹ Lê không chỉ phản ánh sự bất công, tàn nhẫn của xã hội đương thời mà còn là lời tố cáo mạnh mẽ chế độ vô nhân đạo đã đẩy con người vào đường cùng không lối thoát.
Thạch Lam dường như đã hóa thân vào nhân vật để cảm nhận những nỗi đắng cay trong cuộc đời của họ. Ta thấy cái nhìn độ lượng, thương cảm của nhà văn khi miêu tả căn nhà tồi tàn của mẹ Lê "chừng ấy người chen chúc trong một khoảng rộng độ bằng hai chiếc chiếu, có mỗi một chiếc giường nan đã gẫy nát", mùa rét phải rải ổ rơm đầy nhà, mẹ con cùng nằm và tác giả so sánh cảnh tượng đó "trông như một ổ chó, chó mẹ và chó con lúc nhúc". Để đặc tả sự nghèo khổ của nhà mẹ Lê, tác giả cho ta thấy "cách kiếm ăn' khổ cực và bấp bênh của bà mẹ này:" Từ buổi sáng tinh sương mùa nực cũng như mùa rét bác ta phải trở dậy đi làm mướn cho những người có ruộng trong làng ". Ấy vậy mà đó là những ngày sung sướng nhất vì khi ấy còn có người mướn bác làm việc. Những con người sống với nghề nghiệp bấp bênh ấy trở nên tội nghiệp hơn khi những ngày mùa qua đi, cánh đồng chỉ còn trơ cuống rạ. Những khó khăn ấy không chỉ đến với riêng mẹ Lê mà với tất cả những người dân trong xóm ngụ cư nghèo khổ ấy. Đặc tả một khung cảnh đói khổ và buồn bã, tác phẩm dường như báo hiệu cho chúng ta thảm cảnh Ất Dậu.
Nhân vật trong" nhà mẹ Lê "sống trọn vẹn với niềm vui và cả những nỗi buồn. Những con người ấy thiếu thốn về vật chất nhưng không thiếu thốn về tinh thần. Họ không cô đơn trong cuộc sống cũng không cô độc trong cuộc đời bởi họ luôn mang trong tâm hồn mình tình người ấm áp. Tình người đẹp đẽ ấy phải chăng xuất phát từ tấm lòng bao la của nhà văn dành cho những kiếp người nhỏ bé? Thạch Lam đã đưa họ đến gần nhau để những con người ấy không chỉ thấu hiểu mà còn chia sẻ và giúp đỡ nhau. Mẹ Lê khi bị chó nhà giàu cắn được đưa về nhà trong cơn đau vẫn xúc động nói" may gặp bác Đối, chứ không biết bao giờ mới lê về được đến nhà "và khi người mẹ ấy chết đi chính những người nghèo khổ ấy đã" mua cho bác một cỗ ván mọt, rồi đưa giúp bác ra cánh đồng, chôn vào bãi tha ma nhỏ đầu làng ". Họ quay trở về ái ngại và xót xa cho những đứa con tội nghiệp của người mẹ xấu số. Tác phẩm vì thế được bao trùm bởi tình yêu thương. Đó không chỉ là tình thương của những con người cùng cảnh ngộ trong truyện mà còn là tình thương của độc giả dành cho nhân vật và của chính nhà văn với" đứa con tinh thần ".
"Thạch Lam pha trộn chất bi đát cùng với chất thơ thành một thể tuyệt vọngmới, âu yếm trùm lên những thân phận không còn là phận người trước khi trởnên thây người. Cả truyện ngắn là một liều lượng pha trộn tuyệt vời đói khát vớino đủ, yêu thương với ác nghiệt, hy vọng với tuyệt vọng qua những hình ảnhđẹp rướm máu, cái chết của mẹ Lê âm thầm dẫn đến những cái chết của mườimột đứa con, tuy không nói ra, lại càng làm cho chúng ta cảm thấy bàn tay củatử thần sờ trán mỗi đứa nhỏ mỗi lúc một gần trong từng tích tắc còn lại." (ThụyKhuê)
Thạch Lam sử dụng ngôi kể thứ ba toàn tri, giúp người đọc bao quát toàn bộ câu chuyện, thấu hiểu được số phận bất hạnh của nhân vật và đồng cảm sâu sắc hơn với họ. Nhân vật mẹ Lê được khắc họa vừa chân thực vừa cảm động: một người mẹ nghèo khổ, cam chịu, hy sinh tất cả cho đàn con nhưng bất lực trước nghịch cảnh.Những chi tiết miêu tả đời sống của mẹ Lê và các con rất chân thực, từ căn nhà chật hẹp, rách nát “chỉ rộng bằng hai chiếc chiếu” cho đến công việc bấp bênh “làm mướn từ sáng tinh sương”. Dù sống trong nghèo đói, mẹ Lê vẫn giữ được phẩm chất cao đẹp: tình mẫu tử thiêng liêng và lòng tự trọng. Ngôn ngữ trong truyện ngắn vừa giản dị, vừa giàu chất thơ. Thạch Lam không miêu tả cái nghèo một cách khô khan, mà lồng ghép vào đó những hình ảnh đầy cảm xúc, khiến người đọc không khỏi xót xa: “cả nhà xúm xít quanh nồi cơm bốc khói” là những ngày hạnh phúc nhất của mẹ Lê, nhưng chúng quá ngắn ngủi và hiếm hoi. Hình ảnh cuối đời của mẹ Lê - nằm trên ổ rơm trong cơn sốt - khắc họa sự bất lực tột cùng của một con người đã bị số phận đẩy đến bờ vực.
Nguyễn Ngọc Tư là một nhà văn xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại, nổi bật với những tác phẩm gần gũi, bình dị nhưng sâu sắc. Văn phong của bà giàu chất Nam Bộ, giản dị mà thấm thía, chạm đến trái tim người đọc qua cách kể chuyện nhẹ nhàng nhưng ẩn chứa nhiều tầng ý nghĩa. Tác phẩm “Làm mẹ” là một minh chứng điển hình cho phong cách ấy. Bằng cách xây dựng chủ đề và sử dụng những biện pháp nghệ thuật đặc sắc, Nguyễn Ngọc Tư đã khắc họa khao khát thiêng liêng được làm mẹ, đồng thời gửi gắm những thông điệp nhân văn sâu sắc về tình cảm gia đình.
Câu chuyện xoay quanh cuộc sống của dì Diệu, một người phụ nữ trung niên đã ngoài bốn mươi. Ở tuổi này, điều mà dì mong muốn nhất là được làm mẹ, một ước mơ đơn giản nhưng lại xa vời bởi dì đã phải phẫu thuật cắt bỏ buồng trứng và không thể sinh con. Nỗi đau này trở thành vết thương âm ỉ trong lòng dì Diệu, mặc dù bên ngoài dì luôn tươi cười, lạc quan. Dì Diệu là một hình mẫu điển hình của những người phụ nữ chịu thương, chịu khó, nhưng ẩn sâu bên trong là sự khắc khoải và khát vọng được làm mẹ. Dì từng ao ước có một đứa con gái để may cho con những bộ đồ đẹp, được nghe tiếng con gọi “mẹ”. Hằng ngày, dì bận rộn với sạp vải nhỏ để lo cho cuộc sống, nhưng trong lòng luôn đau đáu mong mỏi có một đứa con. Dì sống trong hy vọng, nhưng mỗi lần trẻ con đi qua cửa, lòng dì lại quặn đau, như vết thương bị sát muối. May mắn thay, bên cạnh dì là chú Đức – người chồng yêu thương và luôn ủng hộ vợ. Dù không có con, chú vẫn kiên quyết ở bên dì, không bỏ mặc dì trong nỗi buồn. Những hành động nhỏ như tặng quà mỗi lần đi xa, hay những câu nói động viên chân thành đã thể hiện sự gắn bó và thấu hiểu của chú Đức dành cho dì Diệu.
Nguyễn Ngọc Tư đã rất tinh tế khi xây dựng hình ảnh dì Diệu với vẻ ngoài vô tư, hồn nhiên, nhưng bên trong là nỗi đau sâu kín. Nhân vật của bà không phải là những con người quá khác biệt, mà là những người phụ nữ bình thường, chân chất, nhưng mang trong mình những khao khát đời thường, giản dị mà thiêng liêng.
Nguyễn Ngọc Tư đã khéo léo tạo nên hình ảnh dì Diệu – người phụ nữ giản dị, đầy sức sống. Công việc hằng ngày của dì được miêu tả chi tiết: “Ban ngày gì ra sạp vải, lúc nào có khách thì lo buôn bán, đo đắt, lúc nào rảnh dì ngồi đơm nút, vắt khuy.” Sự chăm chỉ và lạc quan của dì không chỉ thể hiện qua hành động mà còn qua những nét tính cách: “Dì vừa làm vừa mủm mỉm cười một mình, rồi vui quá xá là vui.” Nhưng đằng sau dáng vẻ ấy là một trái tim luôn day dứt và đau đớn vì không thể làm mẹ.Nhân vật chú Đức, chồng dì Diệu, được xây dựng với tính cách hiền hậu, điềm đạm và đầy yêu thương. Chú là chỗ dựa tinh thần quan trọng giúp dì Diệu vượt qua nỗi đau. Những câu thoại chân thực và hài hước của chú, như: “Em như con nít … tới chừng anh lụ khụ rồi em vẫn chưa già,” không chỉ tạo nên sự gần gũi mà còn khắc họa một tình yêu chân thành và bền bỉ. Nguyễn Ngọc Tư sử dụng ngôn ngữ giản dị, hài hước nhưng đầy ý nghĩa, mang đậm phong cách Nam Bộ. Cách viết của bà không cầu kỳ, trau chuốt mà mộc mạc, đời thường, khiến người đọc cảm nhận được sự gần gũi, thân quen. Những câu thoại tự nhiên, chân thực không chỉ thể hiện rõ nét tính cách nhân vật mà còn giúp câu chuyện trở nên sinh động và lôi cuốn hơn. Tác phẩm không có những tình huống kịch tính, gay cấn, mà nhẹ nhàng kể lại cuộc sống thường nhật của dì Diệu. Nhưng chính sự giản dị ấy đã tạo nên sức hút riêng biệt. Từng chi tiết nhỏ như tiếng trẻ con đi qua cửa, những món quà của chú Đức, hay hình ảnh dì Diệu khâu từng chiếc áo cho khách, đều góp phần khắc họa rõ nét nỗi đau và niềm hy vọng của nhân vật. Nguyễn Ngọc Tư còn xây dựng một tình huống hé mở đầy cảm động, khi dì Diệu mong mỏi có một đứa con gái. Tình huống ấy không chỉ thể hiện niềm hy vọng của dì, mà còn gợi lên sự đồng cảm sâu sắc từ người đọc.
Hai đoạn trích không chỉ là minh chứng cho tài năng của hai tác giả mà còn góp phần làm phong phú thêm chủ đề về tình mẫu tử trong văn học Việt Nam. Nhà mẹ Lê khắc họa hiện thực khắc nghiệt và vẻ đẹp của sự hi sinh âm thầm, còn Làm mẹ mang đến cái nhìn mới về tình mẫu tử trong bối cảnh hiện đại, với chiều sâu tâm lý phức tạp hơn. Nhà mẹ Lê tập trung vào bi kịch của cái nghèo và số phận nghiệt ngã. Mẹ Lê hiện lên là biểu tượng cho sự cam chịu, tần tảo, dù phải hy sinh mạng sống để bảo vệ con. Trong khi đó, Làm mẹ lại khai thác góc khuất tâm hồn của hai người phụ nữ, một người khát khao làm mẹ nhưng không thể, một người "đẻ thuê" nhưng rồi nảy sinh tình mẫu tử. Nguyễn Ngọc Tư khéo léo khắc họa tình người sâu sắc qua những tình huống đời thường.Những điểm gặp gỡ về nội dung và nghệ thuật xuất phát từ tấm lòng nhân đạo của hai nhà văn. Dù ở hai thời kỳ khác nhau, cả hai đều dành trái tim mình để thấu cảm và viết về những người phụ nữ Việt Nam. Sự khác biệt trong cách kể chuyện và xây dựng hình tượng nhân vật phản ánh phong cách sáng tác riêng biệt của từng người: một bên trầm lặng, hoài cổ; một bên hiện đại, táo bạo.
Qua đoạn trích chúng ta thấy được sức mạnh của văn học trong việc tái hiện và tôn vinh tình mẫu tử, vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Dù khác biệt về thời đại, phong cách sáng tác, cả Thạch Lam và Nguyễn Ngọc Tư đều xứng đáng được ngợi ca vì đã để lại những áng văn đậm tính nhân văn, làm giàu thêm đời sống tinh thần của độc giả. Những câu chuyện ấy sẽ mãi là lời nhắc nhở sâu sắc về giá trị của tình người, tình mẹ trong cuộc đời.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
Bảng tin