

Viết bài văn (khoảng 600 chữ) phân tích đoạn trích trong phần đọc hiểu.
Lòng đâu sẵn mối thương tâm,
Thoắt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa.
Đau đớn thay phận đàn bà!
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
Phũ phàng chi bấy hoá công,
Ngày xanh mòn mỏi má hồng phôi pha.
Sống làm vợ khắp người ta,
Hại thay thác xuống làm ma không chồng.
Nào người phượng chạ loan chung,
Nào người tích lục tham hồng là ai ?
Đã không kẻ đoái người hoài,
Sẵn đây ta thắp một vài nén nhang.
Gọi là gặp gỡ giữa đàng,
Họa là người dưới suối vàng biết cho.
Lầm rầm khấn vái nhỏ to,
Sụp ngồi đặt cỏ trước mồ bước ra.
Một vùng cỏ áy bóng tà,
Gió hiu hiu thổi một vài bông lau.
Rút trâm giắt sẵn mái đầu,
Vạch da cây vịnh bốn câu ba vần.
Lại càng mê mẩn tâm thần
Lại càng đứng lặng tần ngần chẳng ra.
Lại càng ủ dột nét hoa,
Sầu tuôn đứt nối, châu sa vắn dài.
Hãy luôn nhớ cảm ơn và vote 5*
nếu câu trả lời hữu ích nhé!

Đây là câu trả lời đã được xác thực
Câu trả lời được xác thực chứa thông tin chính xác và đáng tin cậy, được xác nhận hoặc trả lời bởi các chuyên gia, giáo viên hàng đầu của chúng tôi.
“Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu
Ngàn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày”
(Tố Hữu)
“Đem bút mực tả lên trên tờ giấy nào những câu vừa lâm ly, vừa ủy mị, vừa đốn tỏa, vừa giải thư, vẽ hệt ra người tài mệnh trong mười mấy năm trời, cũng là vì cái cảnh lịch duyệt của người ấy có lâm ly, ủy mị, đốn tỏa, giải thư, mới có cái văn tả hệt ra như vậy”. Nguyễn Du (1765-1820) tự là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, quê ở làng Tiên Điển, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông sinh trưởng trong một gia đình đại quý tộc thời Lê - Trịnh. Cha là Nguyền Nghiễm từng làm Tể tướng; anh là Nguyễn Khản đỗ Tiến sĩ, làm đại quan trong phù Chúa, được Trịnh Sâm trọng vọng. Nguyễn Du chi đỗ 'Tam trường, nhưng văn chương lỗi lạc". Nguyền Du đã lấy cốt truyện từ “Kim Vân Kiền truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân, Trung Quốc mà sáng tạo ra "Truyện Kiều” bằng thơ lục bát dài 3254 câu thơ, đậm đà màu sắc Việt Nam. ''Truyện Kiều” thấm nhuần tinh thần nhận đạo cao dẹp và có giá trị tô' cáo hiện thực sâu sắc.
Đoạn trích trên là một phần trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, miêu tả cảnh Kiều thăm mộ Đạm Tiên trong tiết thanh minh, thể hiện một không khí trầm buồn, u uất và những suy tư sâu sắc về số phận của người phụ nữ, đặc biệt là số phận của Kiều và Đạm Tiên. Qua đoạn trích, Nguyễn Du đã khắc họa rất rõ nét tâm trạng và cảm xúc của nhân vật Kiều, đồng thời làm nổi bật những chủ đề lớn như số phận, tình yêu và nỗi đau của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
" Lòng đâu sẵn mối thương tâm,
Thoắt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa.
Đau đớn thay phận đàn bà!
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung".
Ngay từ những câu đầu, cảm xúc của Kiều được thể hiện rõ ràng qua những từ ngữ như “Lòng đâu sẵn mối thương tâm,” “Đầm đầm châu sa,” diễn tả sự đau buồn sâu sắc trong lòng Kiều. Câu thơ này không chỉ diễn tả nỗi thương tiếc về Đạm Tiên mà còn là sự đồng cảm sâu sắc với thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Việc dùng hình ảnh “châu sa” (một loại nước mắt) cho thấy nỗi buồn của Kiều đã lên đến mức đẫm lệ, thể hiện sự bi thương, khổ đau tận cùng.Tiếp theo, Nguyễn Du đã sử dụng câu "Đau đớn thay phận đàn bà!" để làm nổi bật số phận bất hạnh của người phụ nữ, một trong những chủ đề xuyên suốt Truyện Kiều. Câu thơ thể hiện sự bất lực và niềm xót xa với tình cảnh của Kiều và Đạm Tiên, hai người phụ nữ cùng phải chịu đựng một cuộc đời đầy bi kịch. Việc dùng từ “bạc mệnh” là lời chung của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến, khi họ luôn phải sống phụ thuộc vào gia đình, chồng con và không có quyền quyết định vận mệnh của mình.
”Truyện Kiều là một tiếng kêu thương, một bản tố cáo, một giấc mơ… một cái nhìn bế tắc” (Hoài Thanh). Ngụp lặn trong từng trang viết, các hình ảnh trong đoạn trích dần hiện lên sống động và có tính biểu tượng cao:
"Phũ phàng chi bấy hoá công,
Ngày xanh mòn mỏi má hồng phôi pha.
Sống làm vợ khắp người ta,
Hại thay thác xuống làm ma không chồng.
Nào người phượng chạ loan chung,
Nào người tích lục tham hồng là ai ?
Đã không kẻ đoái người hoài,
Sẵn đây ta thắp một vài nén nhang".
Ở đây, hình ảnh "má hồng phôi pha" gợi sự phai tàn của vẻ đẹp và sức sống của Kiều, khi cô phải sống trong một thế giới đầy tủi nhục và bất công. Hình ảnh "con tàu xuôi" và "ngày xanh mòn mỏi má hồng phôi pha" miêu tả thời gian trôi qua, thanh xuân của người phụ nữ dần tàn phai trong sự khắc nghiệt của cuộc đời. Kiều, lúc này, nhìn thấy sự kết thúc cuộc đời của Đạm Tiên, cảm nhận rõ rệt nỗi bất hạnh của chính mình, nỗi đau khi "Sống làm vợ khắp người ta, hại thay thác xuống làm ma không chồng", Hai câu thơ này nói lên tình cảnh bi đát của Kiều, khi cô không được sống một cuộc sống tự do, mà phải chịu đựng những khổ đau. "Sống làm vợ khắp người ta" và "thác xuống làm ma không chồng" là hai cảnh sống chết đối lập nhưng lại phản ánh sự bất công trong xã hội phong kiến đối với người phụ nữ.. Thông qua câu thơ "Đau đớn thay phận đàn bà", tác giả thể hiện sự bất công và sự hy sinh của phụ nữ trong xã hội cũ, khi họ luôn phải chịu đựng những đau khổ vì số phận đã định sẵn. Đây là một tiếng nói mạnh mẽ về số phận người phụ nữ trong một xã hội bảo thủ và áp bức.
Cảnh thăm mộ Đạm Tiên không chỉ là một hành động tưởng niệm mà còn là sự đối diện với cái chết, với sự vô thường của cuộc sống. Những chi tiết như "Sụp ngồi đặt cỏ trước mồ bước ra" và "Vạch da cây vịnh bốn câu ba vần" diễn tả hành động Kiều cúi xuống thắp nhang, khấn vái trước mộ Đạm Tiên, như một sự giao thoa giữa thế giới này và thế giới bên kia, giữa nỗi đau của con người sống và sự lặng lẽ của người đã khuất. Đây không chỉ là nghi thức tôn kính mà còn là hành động để Kiều thổ lộ nỗi lòng của mình về những khổ đau của một người phụ nữ không có quyền tự do, không có hạnh phúc trọn vẹn.
Anđecxen đã lượm lặt những hạt thơ trên luống đất của người dân cày, ấp ủ chúng nơi trái tim ông rồi gieo vào những túp liều, từ đó lớn lên và nở ra những đóa hoa thơ tuyệt đẹp, chúng an ủi trái tim những người cùng khổ.(Pauxtopxki). Phái chăng, Nguyễn Du đã đẽo gọt tâm hồn mình để viết lên những trang thơ phản ánh hiện thực sâu sắc làm nổi bật tâm trạng bối rối trong tâm trạng của nàng Kiều:
" Gọi là gặp gỡ giữa đàng,
Họa là người dưới suối vàng biết cho.
Lầm rầm khấn vái nhỏ to,
Sụp ngồi đặt cỏ trước mồ bước ra
...................................
Vạch da cây vịnh bốn câu ba vần.
Lại càng mê mẩn tâm thần
Lại càng đứng lặng tần ngần chẳng ra.
Lại càng ủ dột nét hoa,
Sầu tuôn đứt nối, châu sa vắn dài".
Khép lại đoạn thơ, với những từ ngữ như “Lại càng mê mẩn tâm thần” và “Lại càng đứng lặng tần ngần chẳng ra,” thể hiện sự mâu thuẫn, bối rối trong tâm hồn Kiều. Dù có thể tự hiểu và thông cảm cho Đạm Tiên, nhưng Kiều vẫn không thoát khỏi những suy tư về chính cuộc đời mình. Cảnh Kiều thăm mộ Đạm Tiên không chỉ là một hành động tưởng nhớ mà còn là lúc cô đối diện với nỗi đau, sự bối rối và sợ hãi về số phận của mình. Tâm hồn Kiều đang bị ám ảnh bởi những bất công trong cuộc đời và tình yêu không trọn vẹn.Hình ảnh thiên nhiên trong đoạn trích – cỏ, gió, lau – góp phần tạo nên một không khí u uất, buồn bã, phù hợp với tâm trạng của Kiều. Gió “hiu hiu” và bóng tàu mang đến một cảm giác hoài niệm, u buồn, như sự lặng lẽ của thời gian, là những chi tiết hoàn hảo để tạo nên không khí chậm rãi, đầy suy tư, phù hợp với những cảm xúc của nhân vật. Đoạn thơ "Một vùng cỏ áy bóng tà, Gió hiu hiu thổi một vài bông lau" mang lại hình ảnh mơ màng, gợi nhớ những kỷ niệm cũ và những sự kiện đã qua, như một phần không thể tách rời của quá khứ mà Kiều phải đối diện. Đoạn trích đã khắc họa rõ nét sự xót xa, đau đớn của Kiều trước số phận của Đạm Tiên cũng như trước chính cuộc đời mình.
Hình thức nghệ thuật trong đoạn trích Truyện Kiều của Nguyễn Du rất phong phú và tinh tế, góp phần làm nổi bật chủ đề và cảm xúc của tác phẩm. Đoạn trích trong Truyện Kiều của Nguyễn Du sử dụng nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật sâu sắc, thể hiện qua ngôn ngữ giàu hình ảnh và cảm xúc. Những hình ảnh biểu tượng như “châu sa,” “con tàu xuôi,” và “cỏ, gió, lau” được kết hợp một cách tinh tế để làm nổi bật sự u uất, bi thương trong tâm trạng Kiều. Câu chuyện cũng sử dụng thủ pháp đối thoại giữa quá khứ và hiện tại, tạo nên không khí hoài niệm và gợi cảm xúc mạnh mẽ. Giọng điệu trữ tình và sự hòa quyện giữa thiên nhiên với tâm trạng con người góp phần tăng cường hiệu quả nghệ thuật của tác phẩm. ''Truyện Kiều” là một công trình nghệ thuật, về ngồn ngữ, về thơ lục bát, về tả cảnh, tả tình, tả người,... bút pháp nghệ thuật của Nguyễn Du trờ thành mẫu mực cổ điển vô song.
“Truyện Kiều là vấn đề số phận con người bị áp bức trong xã hội đồng thời là tiếng nói nhân đạo chủ nghĩa cất lên tha thiết từ xã hội đó. Đó là tiếng nói của tầng lớp người đau khổ đòi tự do yêu đương đòi công lý”. Qua cảnh Kiều thăm mộ Đạm Tiên, Nguyễn Du đã phản ánh nỗi đau, sự cô đơn và bất lực mà những người phụ nữ phải chịu đựng, đặc biệt là khi họ bị xã hội áp đặt và không có quyền tự quyết định cuộc đời mình. Câu chuyện mang đến một thông điệp nhân văn về tình yêu, sự đồng cảm và niềm xót xa đối với những phận đời bất hạnh, đồng thời kêu gọi sự chia sẻ và thấu hiểu về nỗi khổ đau của những người phụ nữ trong mọi thời đại.
Có thể nói, đoạn trích Truyện Kiều của Nguyễn Du không chỉ thể hiện rõ nét bi kịch và nỗi đau của Kiều mà còn khắc họa một cách sâu sắc số phận bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Qua nghệ thuật miêu tả tâm lý tinh tế, ngôn ngữ giàu hình ảnh và hình thức thơ lục bát du dương, Nguyễn Du đã đưa người đọc vào một không gian trầm tư, hoài niệm, đầy cảm xúc. Đoạn trích cũng là một thông điệp nhân đạo sâu sắc về tình thương, sự cảm thông đối với những phận đời bất hạnh, và là lời lên án sự bất công của xã hội đối với người phụ nữ. Truyện Kiều vẫn mãi là một tác phẩm tiêu biểu của văn học Việt Nam, có giá trị về mặt nghệ thuật và nhân văn, mang lại những suy tư sâu sắc về cuộc đời và số phận.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
Bảng tin