

ạn trích sau:
Một năm một nhạt mùi son phấn,
Trượng phu còn thơ thần miền khơi.
Xưa sao hình ảnh chẳng rời?
Giờ sao nỡ để cách vời Sâm, Thương? [78]
Chàng ruồi ngựa, dặm trường mây phủ,
Thiếp dạo hài, lối cũ rêu in.
Gió Xuân ngày một vắng tin,
Khá thương lỡ hết mấy phen lương thì [79])
Sợi nhớ khi cành đào đóa mận,
Trước gió xuân vàng tía sánh nhau;
Nọ thì à Chức, chàng Ngưu
Đến trăng thu lại bắc cầu sang sống.
Thiếp một thân phòng không luống giữ,
Thời tiết lành nhầm nhỡ đòi nau;
Thoi đưa ngày tháng ruổi mau,
Người đời thấm thoắt qua màu xuân
Đặng Trần Côn, "Chinh phụ ngâm khúc
Phân tích bài thơ
"Anđecxen đã lượm lặt những hạt thơ trên luống đất của người dân cày, ấp ủ chúng nơi trái tim ông rồi gieo vào những túp liều, từ đó lớn lên và nở ra những đóa hoa thơ tuyệt đẹp, chúng an ủi trái tim những người cùng khổ." Lời nhận xét của Pautopxki đã phản ánh mối quan hệ của thơ ca và hiên thực, và rồi dưới mảnh đất hiện thực, Đặng Trần Côn đã ươm mầm thi phẩm " Chinh phụ ngâm" thể hiện tâm trạng của người chinh phụ trong xã hội xưa.
Chinh phụ ngâm được viết bằng chữ Hán, do tác giả Đặng Trần Côn sáng tác vào khoảng nửa đầu thế kỉ XVIII. Đây là thời kì vô cùng rối ren của xã hội phong kiến. Chiến tranh xảy ra liên miên, hết Lê-Mạc đánh nhau đến Trịnh-Nguyễn phân tranh, đất nước chia làm hai nửa. Ngai vàng của nhà Lê mục ruỗng. Nông dân bất bình nổi dậy khởi nghĩa ở khắp nơi. Nhân dân sống trong cảnh loạn li nồi da nấu thịt, cha mẹ xa con, vợ xa chồng. Văn học thời kì này tập trung phản ánh bản chất tàn bạo, phản động của giai cấp thống trị và nỗi đau khổ của những nạn nhân trong chế độ thối nát ấy. Tác phẩm Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn ra đời đã nhận được sự đồng cảm rộng rãi của tầng lớp Nho sĩ. Nhiều bản dịch xuất hiện, trong đó bản dịch sang chữ Nôm của bà Đoàn Thị Điểm được coi là hoàn hảo hơn cả, thể hiện thành công lẫn trị nội dung và nghệ thuật của nguyên tác.
Bài thơ "Chinh phụ ngâm" phản ánh thái độ oán ghét chiến tranh phong kiến phi nghĩa, đặc biệt là đề cao quyền sống cùng khao khát tình yêu và hạnh phúc lứa đôi của con người. Đó là điều ít được nhắc đến trong thơ văn trước đây. Đặng Trần Côn dành sự tri âm với số phận của người phụ nữ chờ chồng trong xã hội phong kiến.
Nhân vật trung tâm của tác phẩm là người chinh phụ.Người chinh phụ vốn dòng dõi trâm anh. Nàng tiễn chồng ra trận với mong muốn người chồng sẽ lập được công danh và trở về cùng với vinh hoa, phú quý. Nhưng ngay sau buổi tiễn đưa, nàng sống trong tình cảnh lẻ loi, ngày đêm xót xa lo lắng cho chồng. Thấm thìa nỗi cô đơn, nàng nhận ra tuổi xuân của mình đang qua đi và cảnh lứa đôi đoàn tụ hạnh phúc ngày càng xa vời. Người chinh phụ rơi vào tâm trạng cô đơn đến cùng cực. Khúc ngâm thể hiện rất rõ tâm trạng cô đơn ấy.
Sau buổi tiễn đưa, người chinh phụ trở về, tưởng tượng ra cảnh chiến trường đầy hiểm nguy, chết chóc mà xót xa, lo lắng cho chồng. Một lần nữa nàng tự hỏi vì sao đôi lứa uyên ương lại phải chia lìa? Vì sao mình lại rơi vào tình cảnh lẻ loi? Bấy nhiêu câu hỏi đều không có câu trả lời. Tâm trạng băn khoăn, day dứt ấy được tác giả thể hiện sinh động bằng nghệ thuật miêu tả tâm lí tinh tế. Có thể nói, sầu và nhớ là cảm xúc chủ đạo trong đoạn thơ này.
Mở đầu bài thơ, hình ảnh "Một năm một nhạt mùi son phấn" gợi lên sự tàn phai của sắc đẹp và thời gian. Dường như người phụ nữ đã phải chịu đựng nhiều nỗi buồn trong suốt thời gian chồng ra trận. Nỗi nhớ nhung, cô đơn, và sự mòn mỏi chờ đợi được thể hiện qua câu thơ: “Giờ sao nỡ để cách vời Sâm, Thương?” Hình ảnh Sâm, Thương không chỉ biểu trưng cho tình yêu mà còn cho sự gắn kết, thân thiết mà giờ đây đã trở thành một nỗi đau.
Tác giả khắc họa sự chia cách rõ nét qua hình ảnh "chàng ruồi ngựa, dặm trường mây phủ". Chàng ngựa như một hình ảnh ẩn dụ cho người chinh phạt, gợi lên những cuộc hành trình gian khổ và xa xôi. Trong khi đó, người phụ nữ lại "thiếp dạo hài, lối cũ rêu in", thể hiện sự đơn độc, lặng lẽ trong những kỷ niệm xưa. Từ đó, tác giả gợi mở một khung cảnh vừa thân thuộc, vừa xa lạ, nơi mà tình yêu và sự cách biệt chồng chéo lên nhau. Mỗi người mối hướng nhưng họ luôn hướng về nhau, khẳng định tình yêu, sự thủy chung cùng tình yêu mãnh liệt của đôi lứa yêu nhau.
Cảm nhận dòng chảy cảm xúc, hình ảnh "Sợi nhớ khi cành đào đóa mận" cho thấy nỗi nhớ được nhân lên giữa cảnh vật tươi đẹp của mùa xuân. Cành đào, đóa mận tượng trưng cho sự tươi đẹp nhưng cũng là sự mỏng manh, dễ mất. Cảm xúc của người phụ nữ trở nên trăn trở hơn khi tác giả nhắc đến hình ảnh của đôi tình nhân “Chức, chàng Ngưu”, biểu trưng cho tình yêu lứa đôi. Những người yêu nhau có thể gặp gỡ trong ngày Tết, nhưng tình cảnh của nàng thì khác, chỉ còn lại sự cô đơn và thiếu thốn tình cảm.
Khép lại bài thơ, câu thơ “Thoi đưa ngày tháng ruổi mau” như một tiếng thở dài của người phụ nữ trước sự trôi qua nhanh chóng của thời gian. Cuộc đời thấm thoắt đã qua màu xuân, nhấn mạnh rằng trong khi cuộc sống vẫn tiếp diễn, người chinh phụ vẫn đang trong cảnh ngộ đau khổ. Tình yêu, sự chờ đợi, và nỗi nhớ đã khiến nàng trở thành một hình ảnh đầy bi thương.
Bằng bút pháp nghệ thuật điêu luyện, tác giả đã diễn tả được những diễn biến phong phú, tinh vi các cung bậc tình cảm của người chinh phụ. Cảnh cũng như tình được miêu tả rất phù hợp với diễn biến của tâm trạng nhân vật. Thể thơ thất ngôn bát cú đường luật của thơ xưa được nhà thơ thể hiện thông qua cái nhìn mới mẻ. Ngôn từ giản dị, mộc mạc kết hợp với các biện phap tu từ tạo nên dòng chảy nghệ thuật làm say đắm trong lòng bạn đọc. Tác phẩm Chinh phụ ngâm đã toát lên tư tưởng chủ đạo trong văn chương;một thời, đó là tư tưởng đòi quyền sống quyền được hưởng hạnh phúc rất chính đáng của con người.
Bài thơ " Chinh phụ ngâm" của Đặng Trần Côn đã chạm đến trái tim người đọc, là dòng chảy nghệ thuật muôn thuở bất diệt với thời gian.
Bảng tin