

vt bài văn phân tích bài thơ nỗi buồn quả phụ trích ai tư vãn-Lê Ngọc Hân
Hãy luôn nhớ cảm ơn và vote 5*
nếu câu trả lời hữu ích nhé!
`@Ame`
``
Edgar Allan Poe, nhà biên kịch đắm chìm trong bóng tối và vẻ đẹp u huyền của văn chương, từng để lại cho hậu thế một lời khắc sâu vào tâm hồn, rằng “Giọng ca buồn là thích hợp nhất cho thơ.” Quả thực, những cảm xúc đau thương, u uẩn lại chính là chất liệu thăng hoa, nuôi dưỡng cho những dòng thơ trở nên bất hủ. Cũng với sắc thái ấy, Công chúa Ngọc Hân đã gửi gắm nỗi đau khi người thương đã từ biệt trần giang vào tác phẩm “Ai tư vãn”, đặc biệt là trong đoạn trích “Nỗi buồn quả phụ”. Bằng giọng điệu da diết, từng câu thơ thấm đẫm nỗi xót xa, tiếc nuối khôn nguôi cho tình yêu và nghĩa tình vợ chồng. “Chữ tình nghĩa trời cao đất rộng/ Nỗi đoạn trường còn sống còn đau” như một tiếng vọng bi ai, chạm đến cõi lòng của người đọc, để lại dấu ấn sâu sắc về lòng chung thủy và sự hy sinh bất diệt.
Lê Ngọc Hân (1770 – 1799), hay còn được biết đến là công chúa Ngọc Hân, là người con gái tài sắc vẹn toàn, sinh ra trong gia đình hoàng tộc của vua Lê Hiển Tông. Ngay từ nhỏ, Ngọc Hân đã nổi bật với tài năng tinh thông kinh sử và niềm đam mê văn chương. Năm 16 tuổi, nàng vâng lời vua cha kết duyên cùng Nguyễn Huệ. Dù đây là cuộc hôn nhân mang mục đích chính trị, tình cảm chân thành giữa hai người sớm đã trở nên sâu đậm và mặn nồng. Hạnh phúc ấy ngắn ngủi khi năm 1792, vua Quang Trung đột ngột qua đời, để lại cho Ngọc Hân hai đứa con nhỏ và nỗi đau khôn nguôi. Từ nỗi đau ấy, bài thơ Ai tư vãn đã ra đời, như một khúc ca ai oán về nỗi mất mát và tình yêu son sắt. "Ai tư vãn," nghĩa là "bài vãn ca về nỗi buồn đau tưởng nhớ," là tiếng khóc thành thơ của công chúa Ngọc Hân, bày tỏ nỗi đau đớn tột cùng khi người chồng yêu dấu của mình không còn trên cõi đời. Đoạn trích "Nỗi buồn quả phụ," thể hiện rõ nét nhất tư tưởng của bài thơ, đồng thời khắc sâu tài năng văn chương và lòng chung thủy của người góa phụ tài hoa.
Cái u hoài đó đã được thể hiện ngay ở đầu đoạn trích:
“Buồn trông trăng, trăng mờ thêm tủi
Gương Hằng Nga đã bụi màu trong!
Nhìn gương càng thẹn tấm lòng,
Thiên duyên lạnh lẽo, đêm đông biên hà.”
Thời xưa, ngắm trăng thường là biểu dương của sự lãng mạng, tình yêu đôi lứa. Như trong văn hoá Nhật, “Ánh trăng hôm nay đẹp quá nhỉ!” tựa như lời tỏ tình đầy chân thành. Thế nhưng trong cửa sổ tâm hồn của người quả phụ, trăng hôm nay chẳng sáng, lại còn mờ nhạt, phủ đầy tủi hờn. Ánh trăng "mờ" không chỉ là một hiện tượng tự nhiên mà còn là dấu hiệu của nỗi buồn đang tràn ngập khắp không gian, tạo nên cảm giác lạnh lẽo, trống trải và cô đơn. Ngoài ra, hình ảnh "gương Hằng Nga đã bụi màu trong" tiếp tục khắc sâu thêm nỗi buồn, khiến cho cảnh vật xung quanh không còn nét sáng trong như trước. Phụ nữ thường thích dành thời gian trước gương để chải chuốt, soi ngắm chính mình nhưng giờ đây cũng bị phủ bụi, u ám, biểu hiện cho một nỗi vô vọng, trống rỗng không cách nào xua tan. Phải chăng, cảnh vật đã trở thành tấm gương phản chiếu tâm trạng của người quả phụ, khi niềm đau và sự trống rỗng cứ bủa vây? Điều này không chỉ ám chỉ sự phai nhạt của tình duyên, tình yêu khi người bạn đời đã mãi mãi rời xa, mà còn ngụ ý rằng màu trong sáng của gương đã bị bụi thời gian làm nhòa đi, cũng như niềm hạnh phúc của nàng đã dần hao mòn, nhạt phai trước những biến cố đau thương của cuộc đời. Nhịp ngắt 3/4, 3/4, 2/4, 4/4 ở các câu song thất và luc bát gợi cảm giác ngập ngừng, trĩu nặng, làm nổi bật sự cô độc và day dứt. Mỗi nhịp ngắt như một khoảng lặng, phản chiếu nỗi buồn sâu kín, không gian mờ mịt, và sự băng giá của tình duyên lỡ làng trong lòng người quả phụ. Hai câu "Nhìn gương càng thẹn tấm lòng, / Thiên duyên lạnh lẽo, đêm đông biên hà" thể hiện sự day dứt và tủi hổ của người quả phụ khi đối diện với gương, nơi phản chiếu cả nhan sắc phai tàn và nỗi cô độc. "Thiên duyên lạnh lẽo" ám chỉ tình duyên lỡ làng, như đêm đông lạnh giá càng làm sâu thêm sự trống trải, băng giá trong lòng nàng.
Những dòng thơ tiếp, nỗi buồn của người quả phụ thấm đẫm vào từng cảnh sắc thiên nhiên, khiến hoa lá, chim muông như cùng chung nỗi niềm cay đắng, lẻ loi:
“Buồn xem hoa, hoa buồn thêm thẹn.
Cánh hải đường đã quyện giọt sương
Trông chim càng dễ đoạn trường.
Uyên ương chiếc bóng,phượng hoàng lẻ đôi.”
Nguyễn Du, bậc đại thi hào của dân tộc Việt Nam, người đã để lại dấu ấn rực rỡ trong lịch sử văn học với Truyện Kiều bất hủ, từng nói rằng – “ Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu / Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ,” Chẳng lệch đi đâu được, qua đôi mắt sầu bi của Ngọc Hân, mọi cảnh vật như phủ một lớp sương buồn, Hải đường, một loài hoa đẹp nhưng nay cũng "buồn thêm thẹn," "quyện giọt sương" như khóc thương cho số phận của người quả phụ, biểu trưng cho nỗi đau thầm lặng, sự cô đơn trĩu nặng trong tâm hồn. Ở đây, con người tài hoa ấy đã tinh tế sử dụng biện pháp ẩn dụ "giọt sương" để diễn tả những giọt nước mắt, biểu hiện sự u buồn, đau khổ. Hình ảnh này không chỉ khắc sâu nỗi đau mà còn hòa nhịp cùng thi luật vần bằng - trắc trong thể song thất lục bát, âm điệu nhịp nhàng mà trầm lắng, như tiếng lòng thổn thức của nhân vật. Các câu 7 chữ có thanh bằng ở cuối (thẹn, trường) rồi chuyển sang câu 6 chữ và câu 8 chữ với thanh trắc (đôi), tăng thêm độ sâu lắng của nỗi buồn, kéo dài không gian cô quạnh. Hình ảnh "Trông chim càng dễ đoạn trường: Uyên ương chiếc bóng, phượng hoàng lẻ đôi" tiếp tục gợi lên sự đồng cảm giữa thiên nhiên và con người. Cụm từ “đoạn trường” đầy ý nhị, bắt nguồn từ điển cố "Đoạn Trường Tân Thanh" - nỗi đau đứt ruột trong văn học phương Đông, gợi cảm giác tan nát, đớn đau đến tận cùng. Chim uyên ương, phượng hoàng vốn là biểu tượng cho tình yêu vĩnh cửu, nhưng giờ đây chỉ còn "chiếc bóng," "lẻ đôi," phô bày sự chia lìa, mất mát. Bút pháp tả cảnh ngụ tình khắc họa cảnh vật thê lương, u tối với hình ảnh hoa buồn, phượng hoàng lẻ đôi... Giọng điệu u buồn, từ ngữ chọn lọc tinh tế, biện pháp tu từ độc đáo đã tạo nên không gian thấm đẫm nỗi đau.
Rồi những thú vui mỹ miều chẳng còn cuốn hút nàng như trước, chỉ còn tiếng thở dài lặng lẽ.
“Cảnh nào cùng ngùi ngùi cảnh ấy
Tiếc vui mừng còn thấy chi đâu!
Phút giây bãi biển nương dâu,
Cuộc đời là thế,biết hầu nài sao?
Hai câu thơ mở đầu gợi lên cảm giác đồng điệu giữa cảnh vật và tâm trạng con người. "Ngùi ngùi" là từ láy gợi lên sự luyến tiếc, đau lòng, như thể cả thế gian đều khoác lên màu buồn của nỗi niềm mất mát. "Tiếc vui mừng còn thấy chi đâu!" thể hiện nỗi trống rỗng vô tận, khi niềm vui đã bị cuốn trôi, để lại lòng người quả phụ đầy hoang vắng. Các câu thất 7 chữ này, với thanh bằng cuối câu và cách ngắt nhịp chậm rãi, tạo không gian trầm buồn, nhấn mạnh sự kéo dài, dai dẳng của nỗi cô độc. “Phút giây bãi biển nương dâu” là hình ảnh ẩn dụ từ điển tích "bãi bể nương dâu," diễn tả sự đổi thay khôn lường của cuộc đời. Trong văn học phương Đông, "bãi biển nương dâu" biểu trưng cho sự biến chuyển vô thường, từ bãi biển hoang sơ có thể hóa thành nương dâu, từ niềm hạnh phúc hóa thành đau khổ. Câu thơ lục bát trong thể thơ này tạo nên nhịp điệu kéo dài, trầm lắng, như âm hưởng của tiếng lòng đầy nuối tiếc, cô độc của người phụ nữ khi đối diện với sự đổi thay không thể cưỡng lại. “Cuộc đời là thế, biết hầu nài sao?” – câu hỏi tu từ ở cuối đoạn thơ như một tiếng thở dài buông xuôi, một sự chấp nhận đầy bất lực trước số phận. Từng nhịp thơ song thất lục bát đưa đẩy như muốn khắc sâu thêm sự bất lực này, tạo thành một tiếng lòng lặng thầm, dai dẳng, thể hiện sự cam chịu của người quả phụ trước cuộc đời đầy nghiệt ngã.
Trong văn học trung đại Việt Nam, nhiều tác phẩm đã khắc họa sâu sắc hình ảnh người phụ nữ lẻ loi, cô đơn, mang nỗi buồn triền miên vì cách trở tình duyên. Một trong số đó là hình ảnh người chinh phụ trong tác phẩm “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn:
“Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai”
Những câu thơ miêu tả cảnh người phụ nữ chờ mong chồng trở về nơi biên ải, với nỗi lòng khắc khoải, dõi mắt nhìn về phương xa mà chỉ thấy màu xanh bạt ngàn của ngàn dâu. Khung cảnh ấy không chỉ gợi lên nỗi cô đơn, lẻ loi, mà còn thể hiện sự trống trải của lòng người. Khác với “Ai tư vãn” của Lê Ngọc Hân, bài thơ “Chinh phụ ngâm” thể hiện nỗi nhớ nhung đến tột cùng của người chinh phụ, luôn khát khao tin tức người chồng nơi xa xôi.
Đoạn trích “Nỗi buồn quả phụ” là tiếng lòng chân thật và sâu sắc của một người phụ nữ đã trải qua mất mát, chua xót khi người chồng vĩnh viễn ra đi, là những dòng tâm sự về cuộc đời đầy lẻ loi và buồn thương. Với bút pháp tinh tế và cảm xúc chân thành, đoạn trích không chỉ mang giá trị nghệ thuật đặc sắc mà còn chạm đến trái tim của nhiều thế hệ bạn đọc, để lại dấu ấn sâu đậm và cảm giác đồng cảm bền bỉ. Những cảm xúc ấy không chỉ thuộc về một thời đại mà còn có thể vang vọng qua bao thế hệ, gợi lên sự trân trọng những tình cảm chân thành trong mỗi người.
`--------------------------`
Bạn tham khảo nhé, bài này mình đã đưa cho cô giáo chấm chữa rồi ạ.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
Bảng tin