

I. ĐỌC HIỂU (6,0 điểm)
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu ở dưới
QUA ĐÈO NGANG
Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Lom khom dưới núi, tiều vài chú
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.
Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc,
Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia.
Dừng chân đứng lại, trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta.
(Bà Huyện Thanh Quan – Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, NXB Văn hoá, Hà Nội, 1963)
Câu 1: Em hãy cho biết bài thơ “Qua Đèo Ngang” được viết theo thể thơ nào? Dấu hiệu nào cho em biết điều đó?
Câu 2: Những từ tượng hình có trong bài là:
Câu 3 ; Nội dung chính bài thơ “Qua Đèo Ngang” thể hiện là gì ?
Câu 4: Bài thơ “Qua Đèo Ngang” khắc họa khung cảnh thiên nhiên như thế nào?
Câu 5: Nhân vật trữ tình trong bài thơ có tâm trạng như thế nào?
Câu 6: Các từ: lom khom, lác đác thuộc loại từ gì? Tác dụng?
Câu 7. Nội dung của đoạn thơ trên. Khung cảnh ấy được gợi lên thông qua những chi tiết nào?
Câu 8. Chỉ ra và nêu hiệu quả của biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong câu thơ:
“Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”.
Câu 9: Chỉ rõ và nêu tác dụng của biện pháp tu từ được sử dụng trong 2 câu thơ:
“Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc,
Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia.”
Câu 10: Phân tích một số nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật của bài thơ “Qua Đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan.
II. LÀM VĂN (4,0 điểm)
Phấn tích bài thơ “Qua Đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan
Hãy luôn nhớ cảm ơn và vote 5*
nếu câu trả lời hữu ích nhé!

Đây là câu trả lời đã được xác thực
Câu trả lời được xác thực chứa thông tin chính xác và đáng tin cậy, được xác nhận hoặc trả lời bởi các chuyên gia, giáo viên hàng đầu của chúng tôi.
Đáp án:
Giải thích các bước giải:
Câu 1:
Thể thơ: thất ngôn bát cú đường luật
Dấu hiệu:
-Bài có 8 câu, mỗi câu có 7 tiếng
-Niêm:
+Câu 1 niêm với câu 8
+Câu 2 niêm với câu 3
+Câu 4 niêm với câu 5
+Câu 6 niêm với câu 7
-Đối:
+Câu 3 đối với câu 4
+Câu 5 đối với câu 6
- Luật: luật vần trắc(tới)
Câu 2:
Các từ tượng hình có trong bài: lom khom,lác đác
Câu 3:
Nội dung chính:Bức tranh thiên nhiên và cuộc sống con người nơi đèo Ngang hiện lên vừa đẹp, hoang sơ, vừa gợi một nỗi buồn man mác. Qua đó, tác giả bộc lộ tâm trạng hoài cổ, nỗi nhớ nước, thương nhà da diết cùng cảm giác cô đơn, thầm lặng trong lòng.
Câu 4:
Bài thơ “Qua Đèo Ngang” khắc họa khung cảnh thiên nhiên rộng lớn, vắng vẻ, hoang vu, vắng lặng.
Câu 5:
Nhân vật trữ tình trong bài thơ bộc lộ tâm trạng hoài cổ, nỗi nhớ nước, thương nhà da diết cùng cảm giác cô đơn.
Câu 6:
Các từ lom khom, lác đác thuộc loại từ tính từ.
Tác dụng: giúp miêu tả không gian, khung cảnh đèo Ngang đìu hiu,vắng vẻ càng khiến cho lòng người lữ khác tha hương càng thêm đau xót.
Câu 7:
Khung cảnh đèo Ngang được gợi lên thông qua các chi tiết:
+Bóng xế tà
+Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
+Lom khom dưới núi, tiều vài chú
+Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.
Câu 8:
Biện pháp nghệ thuật: điệp từ (chen)
Tác dụng: biện pháp tu từ giúp làm tăng tính gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt và giúp cho câu thơ thêm sinh động, tăng tính nhạc. Qua đó khắc họa khung cảnh nơi đèo Ngang đìu hiu, nghèo nàn,
Câu 9:
Biện pháp tu từ: đảo ngữ
Tác dụng:
+Biện pháp tu từ giúp làm tăng tính gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt và giúp cho câu thơ thêm sinh động, hấp dẫn.
+Qua đó, tác giả đã tái hiện khung cảnh đèo Ngang hoang vắng thưa thớt chỉ lác đác vài căn nhà và âm thanh buồn da diết của con quốc quốc và cái gia gia càng xoáy thêm vào lòng tác giả nỗi nhớ nhà đầy xót xa.
+Từ lời thơ,qua đó bộc lộ tình cảm yêu nước sâu kín, sự nhớ nhà, hoài cổ và đau xót khi phải rời xa quê hương của tác giả.
Câu 10:
-Từ láy tượng hình: lom khom, lác đác
Lom khom dưới núi tiều vài chú,
Lác đác bên sông chợ mấy nhà.
Tác dụng: từ láy tượng hình giúp tăng tính gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt và giúp cho bức tranh thơ thêm sinh động, sắc nét. Qua đó, tác giả đã tái hiện khung cảnh đèo Ngang hoang vắng thưa thớt chỉ lác đác vài căn nhà và người ở thì cũng chỉ lom khom vài ba chú tiều. Khung cảnh hoang vắng ấy càng làm cho nỗi nhớ nhà trong lòng tác giả thêm xót xa.
II.Làm văn
Bà Huyện Thanh Quan là một trong số ít nữ sĩ nổi bật nhất của nền văn học trung đại Việt Nam. Qua Đèo Ngang là tác phẩm xuất sắc không chỉ của riêng bà mà còn của cả nền thơ ca trung đại dân tộc. Bài thơ được sáng tác trong một lần bà đi qua Đèo Ngang để vào kinh đô Huế. Qua ngòi bút tinh tế của nhà thơ, cảnh Đèo Ngang hiện lên vừa thoáng đãng, hùng vĩ, lại vừa heo hút, hoang sơ, thấp thoáng bóng dáng sự sống con người. Đằng sau bức tranh thiên nhiên ấy là tâm trạng nhớ nước, thương nhà, nỗi buồn thầm lặng và cô đơn của tác giả nơi đất khách quê người.
Bà Huyện Thanh Quan tên thật là Nguyễn Thị Hinh, sống vào thế kỉ XIX chưa rõ năm sinh năm mất. Quê bà ở làng Nghi Tàm, nay thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội. Chồng bà từng làm tri huyện Thanh Quan (thuộc tỉnh Hưng Yên hay là Thái Bình cũ ngày nay) vì vậy người đời quen gọi bà là Bà Huyện Thanh Quan. Bà là một trong những nữ sĩ tài danh hiếm có của văn học trung đại Việt Nam, nổi tiếng với phong cách thơ trang nhã, tinh tế, thể hiện tâm hồn hoài cổ, yêu nước và thương nhà sâu sắc. Hiện nay, thơ bà còn lưu giữ được sáu bài thơ Đường luật, trong đó "Qua Đèo Ngang" là tác phẩm tiêu biểu, thể hiện rõ phong cách nghệ thuật và tâm hồn của bà.
Tác giả đã khắc hoạ khung cảnh thiên nhiên nơi dèo Ngang trong một buổi chiều tà nhuộm màu hoàng hôn và buồn bã:
Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Thời gian "bóng xế tà" gợi lên một buổi chiều tà hiu hắt, gợi nỗi buồn man mác và cảm giác cô đơn trong lòng người lữ khách. Không gian nơi đèo Ngang hiện ra mênh mông, hoang vu với cảnh vật chen chúc, đan xen nhau "cỏ cây chen đá, lá chen hoa"tạo nên một không gian hoang sơ, khô cằn, thiếu vắng bàn tay con người. Nếu buổi chiều là lúc mọi người quây quần bên gia đình, thì nhà thơ lại một mình giữa núi non trùng điệp, đối diện với sự tĩnh lặng và cô quạnh của thiên nhiên. Chính sự đối lập ấy càng làm nổi bật nỗi buồn, nỗi cô đơn thầm lặng của tác giả khi đứng trước không gian bao la, hoang vắng nơi đất khách.
Giữa không gian rộng lớn ấy, hình ảnh con người hiện lên thật nhạt nhòa:
Lom khom dưới núi tiều vài chú,
Lác đác bên sông chợ mấy nhà
Hai câu thơ gợi lên khung cảnh chiều tà nơi đèo Ngang với vài bóng dáng con người nhỏ bé những người tiều phu "lom khom" đang đốn củi, vài ngôi nhà "lác đác" bên sông, thấp thoáng trong hoàng hôn. Nghệ thuật đảo ngữ kết hợp với từ láy "lom khom,lác đác" giúp khắc họa sự thưa thớt, nhỏ nhoi của sự sống giữa thiên nhiên bao la. Các từ chỉ số lượng "vài", "mấy" càng nhấn mạnh cảm giác ít ỏi, hoang sơ, vắng vẻ, cô quạnh. Thiên nhiên đẹp mà vắng lặng, còn con người thì hiện lên nhỏ bé, lẻ loi trước không gian rộng lớn, gợi nỗi buồn man mác và sự cô đơn của thi nhân nơi đất khách quê người.
Thiên nhiên càng vắng lặng, tâm trạng nhà thơ càng cô đơn, điều đó được bộc lộ rõ trong hai câu:
Nhớ nước, đau lòng con quốc quốc,
Thương nhà, mỏi miệng cái gia gia.
Hình ảnh "con quốc quốc", "cái gia gia" không chỉ là hình ảnh thực của hai loài chim (chim cuốc và chim đa đa) mà còn là biểu tượng cho nỗi lòng nhớ thương quê hương, đất nước của thi nhân. Đây cũng là âm thanh duy nhất trong bức tranh thiên nhiên tĩnh mịch, vang lên da diết, khắc khoải giữa buổi chiều tà. Việc sử dụng thủ pháp lấy động tả tĩnh khiến tiếng chim càng làm nổi bật không gian yên ắng, thiếu vắng sự sống con người, đồng thời khơi sâu nỗi buồn nhớ của tác giả.Hai chữ "nhớ nước" gợi nỗi hoài niệm về quá khứ huy hoàng của triều đại cũ, còn "thương nhà" thể hiện nỗi nhớ gia đình, quê hương sâu nặng. Những cảm xúc ấy hòa quyện, làm hiện lên hình ảnh người nữ sĩ cô đơn, hoài niệm, mang trong lòng nỗi nhớ nước thương nhà da diết. Ẩn sau bức tranh phong cảnh là nỗi lòng thầm kín và tâm hồn yêu nước tha thiết của Bà Huyện Thanh Quan.
Đến hai câu kết:
Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta
Hai câu thơ đã bộc lộ trực tiếp nỗi niềm cô đơn, khắc khoải của tác giả. Trước không gian bao la, mênh mông của trời, non, nước, con người trở nên nhỏ bé, lẻ loi hơn bao giờ hết. Chỉ bốn chữ "dừng chân nghĩ lại" đã gợi cảm giác bâng khuâng, dừng bước trước thiên nhiên hùng vĩ mà lòng đầy trĩu nặng. Giữa đất trời rộng lớn, thi nhân chỉ có "một mảnh tình riêng"nỗi niềm sâu kín, chỉ có "ta với ta".Nỗi cô đơn ấy không chỉ là cảm xúc cá nhân, mà còn chất chứa nỗi nhớ nước, thương nhà, hoài niệm về quá khứ huy hoàng.
Bài thơ "Qua đèo Ngang" không chỉ khắc họa bức tranh thiên nhiên hoang sơ, tĩnh lặng mà còn là tiếng lòng sâu kín đầy tâm trạng của một con người xa quê, mang nặng nỗi buồn hoài cổ. Với bút pháp tả cảnh ngụ tình, Bà Huyện Thanh Quan đã gửi gắm trong từng câu chữ nỗi cô đơn giữa đất khách, niềm thương nhớ quá khứ và tâm sự của một người phụ nữ tài hoa sống trong xã hội phong kiến xưa. Tác phẩm không chỉ thể hiện tài năng nghệ thuật tinh tế của nữ sĩ mà còn chạm đến chiều sâu cảm xúc của người đọc, gợi nên niềm đồng cảm về nỗi buồn nhân thế và những hoài niệm về một thời đã xa.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
Câu 1:
Bài thơ “Qua Đèo Ngang” được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Dấu hiệu nhận biết: mỗi bài thơ gồm 8 câu, mỗi câu có 7 chữ. Cấu trúc của bài thơ tuân thủ chặt chẽ quy tắc đối và niêm luật đặc trưng của thơ Đường.
Câu 2:
Những từ tượng hình trong bài thơ là: lom khom, lác đác.
Câu 3:
Bài thơ thể hiện nỗi buồn cô đơn, lẻ loi và sự hoài niệm của tác giả khi đứng trước khung cảnh hoang sơ, vắng vẻ của Đèo Ngang. Đó là nỗi nhớ nước, thương nhà, gắn liền với tâm trạng buồn bã trước tình cảnh đất nước thời kỳ suy tàn.
Câu 4:
Thiên nhiên trong bài thơ hiện lên hoang sơ, tĩnh lặng với cảnh cây cỏ chen đá, hoa lá đan xen. Có vài người tiều phu thấp thoáng trên núi, một vài ngôi nhà nhỏ rải rác bên sông. Khung cảnh đèo Ngang mang nét hoang vắng, tĩnh mịch nhưng cũng giàu chất thơ.
Câu 5:
Nhân vật trữ tình có tâm trạng buồn bã, cô đơn và lẻ loi. Trước khung cảnh hoang vắng, lòng tác giả dậy lên nỗi nhớ nước, thương nhà, bộc lộ nỗi buồn đau trước tình cảnh đất nước và gia đình.
Câu 6:
Lom khom và lác đác là các từ láy tượng hình.
Tác dụng: Những từ láy này làm tăng tính gợi hình, giúp người đọc hình dung rõ nét hơn về hình ảnh những tiều phu nhỏ bé, ít ỏi, và những ngôi nhà lác đác, rải rác bên sông. Chúng tạo nên sự vắng vẻ, tĩnh lặng của cảnh vật.
Câu 7:
Nội dung của đoạn thơ miêu tả khung cảnh hoang sơ, vắng lặng của Đèo Ngang vào buổi chiều tà. Qua hình ảnh “cỏ cây chen đá, lá chen hoa”, những người tiều phu lẻ loi trên núi, cùng vài ngôi nhà thưa thớt bên sông, ta cảm nhận sự tĩnh lặng, hiu quạnh. Tâm trạng của nhân vật trữ tình càng thêm buồn bã khi đối diện với không gian vắng vẻ đó.
Câu 8:
Biện pháp nghệ thuật: Điệp từ “chen” và phép đối “cỏ cây” với “lá hoa”.
Tác dụng: Điệp từ “chen” gợi lên sự hòa quyện và đan xen giữa cây cỏ, lá hoa với đá, thể hiện sự hoang sơ và sức sống mãnh liệt của thiên nhiên. Phép đối còn giúp tăng thêm sự nhịp nhàng, cân đối và hài hòa trong câu thơ, đồng thời nhấn mạnh vẻ đẹp mộc mạc, đơn sơ của khung cảnh thiên nhiên nơi đèo Ngang.
Câu 9:
Biện pháp tu từ: Ẩn dụ, nhân hóa, và điệp từ.
Tác dụng:
Hình ảnh “con quốc quốc” và “cái gia gia” vừa là tiếng kêu của loài chim, vừa ẩn dụ cho nỗi lòng của tác giả. Tiếng chim “quốc quốc” gợi nhớ về nỗi đau mất nước, còn tiếng “gia gia” gợi nhớ đến gia đình xa cách.
Phép điệp từ “quốc quốc”, “gia gia” làm tăng thêm sự vang vọng, lặp đi lặp lại trong nỗi lòng đau xót của tác giả, tạo nên âm hưởng buồn thương, sâu lắng.
Câu 10:
Thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật: Bài thơ tuân thủ chặt chẽ niêm luật của thơ Đường, với kết cấu chặt chẽ, các cặp câu đối nhau tạo nên sự hài hòa trong âm điệu.
Hình ảnh thiên nhiên tĩnh lặng, hoang sơ: Thiên nhiên được miêu tả qua các từ ngữ giản dị nhưng gợi hình mạnh mẽ như “cỏ cây chen đá”, “lá chen hoa”, “lom khom”, “lác đác”.
Biện pháp điệp từ, đối lập: Điệp từ “chen” tạo nên nhịp điệu đều đặn, như diễn tả sự đơn điệu của cảnh vật và tâm trạng con người. Phép đối trong các cặp câu giúp bài thơ trở nên cân đối và giàu tính nhạc.
Biểu hiện tâm trạng qua thiên nhiên: Tác giả sử dụng hình ảnh thiên nhiên để biểu hiện tâm trạng của mình, vừa cô đơn, vừa trống trải nhưng cũng mang nỗi niềm sâu lắng, nhớ thương nước nhà.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
![]()
Bảng tin