Viết bài văn nghị luận so sánh đánh giá hai tác phẩm truyện Chí Phèo và lão hạc
Hãy luôn nhớ cảm ơn và vote 5*
nếu câu trả lời hữu ích nhé!
Đây là câu trả lời đã được xác thực
Câu trả lời được xác thực chứa thông tin chính xác và đáng tin cậy, được xác nhận hoặc trả lời bởi các chuyên gia, giáo viên hàng đầu của chúng tôi.
Những năm trước Cách mạng tháng Tám là những năm tháng ngục tù của nông dân Việt Nam. Họ bị chà đạp, bị cai trị và bị bóc lột một cách “toàn diện” nhất. Những kẻ mặt người dạ thú coi họ là những công cụ khai thác, chúng bóc lột, đọa đày những người nông dân hiền lành, chất phác ấy khiến họ bị cái màu đen đục ngầu của xã hội đương thường nhuộm màu. Nhưng cũng có những con người thà chết chứ quyết không bị cái tàn khốc của xã hội làm cho “biến tính”. Thấu hiểu được những đớn đau, khốn cùng ấy của những người nông dân, Nam Cao- cây bút của nông dân đã tái hiện lại bức tranh cuộc sống của những người nông dân lúc bấy giờ thông qua hai nhân vật với hai hoàn cảnh khác nhau. Đó chính là hai nhân vật “Lão Hạc” và “Chí Phèo” qua hai tác phẩm cùng tên.
Nam Cao (1917-1951) là bút danh của nhà báo, nhà văn, liệt sĩ Trần Hữu Tri quê ở làng Đại Hoàng, phủ Lí Nhân, tỉnh Hà Nam. Ông là người đưa văn học hiện thực đến đỉnh cao. Ông chủ yếu viết truyện ngắn, truyện dài chân thực. Những tác phẩm của ông chính là những thước phim hiện thực được thu gọn qua ngòi bút của ông. Những bức tranh ấy đều mang một màu sắc u tối, đầy tiếng ai oán, oán than, trách móc và cái cả sự bất lực của những người nông dân nghèo đói bị áp bức hay những trí thức nghèo sống mòn mỏi bế tác trong xã hội cũ. Sau cách mạng, Nam Cao chân thành, tận tụy sáng tác phục vụ kháng chiến. Ông đã hi sinh trên đường công tác hoạt động ở vùng sau lưng địch.Hoạt động sáng tác của Nam Cao cũng rất phong phú. Tác phẩm đầu tay của ông ra đời năm 1941 mang tên “Đôi lứa xứng đôi” tên bản thảo là “Cái lò gạch cũ” sau được dùng với cái tên quen thuộc ngày nay là “Chí Phèo”. Tháng 4/1943, Nam Cao đã tham gia Hội Văn Hóa cứu quốc và ông là một trong số những thành viên đầu tiên. Đến năm 1946, ông ra Hà Nội để hoạt động trong Hội Văn Hóa cứu quốc. Năm 1950, Nam Cao làm việc trong Hội Văn nghệ Việt Nam và làm việc trong tòa soạn tạp chí Văn nghệ.Nam Cao được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật(1996) Một vài tác phẩm chính của ông như: Chí Phèo (1941); Lão Hạc(1943); Giăng sáng (1942); Đời thừa (1943).....Trong số đó, “Lão Hạc” và “Chí Phèo” là tác phẩm gây được tiếng vang lớn và cùng chung một chủ đề, đề tài viết về cuộc sống của những người nông dân nghèo đói bị những chế độ nửa thực dân, nửa phong kiến đàn áp, chà đạp, bóc lột không thương tiếc.
Lão Hạc là một tác phẩm truyện ngắn với nhân vật chính cùng tên. Truyện được kể bằng lời kể của một nhân vật trong truyện, ông giáo. Lão Hạc là một người nông dân nghèo sống trước cách mạng tháng 8, ông là một người nông dân hiền lành, chất phác và rất lương thiện. Lão có một đứa con trai, con trai lão vì không lấy được vợ nên bỏ đi đồn điền cao su chỉ còn lại lão và một chú chó vàng mà lão vẫn gọi với cái tên thân thương là cậu vàng. Lão yêu cậu Vàng như đứa con trai của chính mình vậy. Cả cuộc đời lão dành dụm tiền bạc thắt lưng buộc bụng để dành cho cậu con trai. Dù đói kém đến mấy lão cũng quyết không động vào số tiền ấy. Nhưng cái đời bất công nào cho lão được yên, năm đó đói kém khiến lão phải ăn cả củ chuối, của ráy mà vẫn chẳng đủ ăn. Đến cuối cùng, lão dành đau đớn mà bán đi cậu Vàng vì lão đã chẳng thể nuôi được cậu nữa mà lão cũng chẳng muốn động vào số tiền lão để dành cho con. Sau khi bán cậu Vàng, lão Hạc vô cùng đau khổ nên lão đã chọn cách kết liễu cuộc đời mình bằng miếng bả chó của Binh Tư.Đến tận lúc chết lão cũng không muốn làm phiền đến làng xóm nên đã gửi trước lại tiền và mảnh đất cho ông giáo để kia khi con lão trở về sẽ trao tận tay cho anh.
Còn Chí Phèo là tác phẩm kể về sự tha hóa và thức tỉnh của nhân vật Chí Phèo. Chí Phèo vốn là một đứa trẻ mồ côi được người ta nhặn được ở cái lò gạch cũ. Hắn được người làng Vũ Đại truyền tay nhau nuôi dưỡng. Lớn lên, Chí Phèo đi ở hết nhà này đến nhà khác và làm canh điền cho nhà Bá Kiến. Vì bà ba nhà Bá Kiến để mắt tới Chí Phèo mà Bá Kiến đâm ra ghen tuông đẩy hắn vào tù. Sau khi đi tù trở về, Chí Phèo trở thành một kẻ bợm rượu, rạch mặt ăn vả chửi. Hắn chửi hết người này đến người khác, ai hắn cũng chửi và sau hắn trở thành tay sai cho Bá Kiến. Sau hắn có một mối tình với thị Nở, tình yêu khiến hắn khao khát được làm người lương thiện. Nhưng bà cô thị Nở và cái xã hội đương thời đã chặn đứng con đường quay lại của hắn. Cuối cùng, hắn nhận ra chính Bá Kiến mới là kẻ khiến hắn trở nên tha hóa như thế này, chính cái xã hội này khiến hắn trở nên khốn nạn như bây giờ. Hắn tuyệt vọng giết chết Bá Kiến và sau đó tự vẫn. Nghe tin Chí Phèo chết, thị Nở không buồn, thị nhìn xuống cái bụng mình và nghĩ đến cái lò gạch cũ bỏ không, vắng người qua lại.
Hai tác phẩm này đều là những tác phẩm hiện thực viết về cuộc sống của những người nông dân trước Cách mạng tháng Tám. Đó đều là những người nông dân nghèo khó, thấp cổ bé họng bị cái xã hội đương thời bức ép đến cùng cực. Vì cái nghèo, cái đói mà con trai lão Hạc bị thách cưới “ Nguyên tiền mặt phải một trăm đồng bạc, lại còn cau, rượu, cả tiền phải tốn hai trăm bạc”. Để lấy một người vợ nhưng phải bỏ ra một số tiền lớn đến như vậy sao người nông dân nào có thể gánh vác được. Ở cái thời lúc bấy giờ thì cái ăn, cái mặc là trên hết, con người ta sẽ chẳng thể nào hiểu được tình yêu là gì, đáng giá ra sao. Bởi cái hiện thực xã hội nghèo đói, sưu cao thuế nặng nghiệt ngã đã khiến con người ta trở nên ích kỉ chỉ biết nghĩ cho riêng mình chứ chẳng còn nghĩ được bất cứ điều gì khác nữa. Thế nên, dù con trai lão và người con gái có tình sâu nghĩa nặng đến đâu thì cũng chẳng thể đến được với nhau vì số tiền thách cưới kia quá lớn. Lão Hạc cả cuộc đời vất vả nhưng đến cuối cùng cũng phải chết một cách tức tưởi, đầy đau đớn vì cái nghèo đói đã vắt kiệt con người lão. Còn Chí Phèo, chỉ vì bà ba liếc mắt tình tứ với hắn mà Bá Kiến ghen tuông tống hắn vào tù. Bá Kiến chính là đại diện cho cái xã hội đương thời bóc lột và thối nát. Chính lão đã đẩy Chí Phèo vào con đường này trở nên biến chất thành một kẻ vô dụng, bợm rượu và ăn vạ. Bá Kiến khốn nạn ấy đã biến Chí Phèo trở thành công cụ của mình, biến hắn thành một tay đòi nợ chuyên nghiệp, không sợ trời, không sợ đất. Xã hội thối nát, tàn bạo đã biến những con người lương thiện này phải chịu biết bao đau khổ. Lão Hạc cả đời chính trực, tự trọng mà cũng chẳng thể sống yên, cuộc đời lão là bao sóng gió vùi dập, đau khổ. Chí Phèo cũng chẳng khá hơn, hắn rất lành, rất hiền và chăm chỉ; hắn chỉ biết làm việc nhưng lại bị vu oan phải đi tù; đi tù về hắn đã chẳng còn là hắn nữa mà trở thành một kẻ ăn vạ, du côn. Cái xã hội ấy đã tàn độc đàn áp biết bao con người, những người nông dân ấy chẳng thể kháng cự mà chỉ có thể buông xuôi như lão Hạc. Dù có cố vẫy vùng đến đâu cũng không thể thoát được bóng tối ấy, đến cùng Chí Phèo vẫn phải kết liễu đời mình để kết thúc tất cả nhưng chính hình ảnh cái lò gạch xuất hiện cuối tác phẩm lại như đánh dấu cho một vòng lặp mới. Và liệu rằng, tương lai có xuất hiện một Chí Phèo mới hay không? Sự tàn nhẫn của xã hội nửa thực dân, nửa phong kiến đã khiến cuộc sống con người ta, nó đã biến những con người vốn hiền lành, chất phác trở thành người ích kỉ thậm chí là biến chất thành một kẻ côn đồ. “Vợ tôi không ác, nhưng thị khổ quá rồi. Một người đau chân có lúc nào quên được cái chân đau của mình để nghĩ đến một cái gì khác đâu?” đó là những lời mà ông giáo nói về vợ của mình. Bà giáo vốn là một người hiền lành nhưng cái đói, cái nghèo đã khiến con người ta trở nên ti tiện, ích kỉ chỉ nghĩ đến riêng mình nào còn tâm trí mà nghĩ cho bất kì ai khác được nữa. Binh Tư cũng là một ví dụ, hắn đã tha hóa trở thành một tay trộm chó có tiếng. Hay một người hiền lành chất phác như Chí Phèo sau khi đi tù trở về lại trở thành một tay ăn vạ, cánh tay phải đắc lực của Bá Kiến. Bản chất những con người ấy vốn lương thiện nhưng lại bị xã hội biến thành một con người nhỏ nhen, tàn bạo, vô cảm. Sau những hoàn cảnh, số phận ấy, tác giả lên án, phê phán xã hội đương thời tàn bạo, đen tối đã đẩy con người ta đến hố sâu cuộc đời. Cả hai tác phẩm đều là một bức tranh hiện thực trần trụi, về những cuộc đời đau khổ và u tối.
Bên cạnh những điểm tương đồng về chủ đề, đề tài, nội dung và bối cảnh lịch sử nhưng mỗi tác phẩm vẫn có những nét riêng, ấn tượng riêng và cả những nỗi khổ riêng. Với tác phẩm “Lão Hạc”, dù cuộc sống có khốn khổ, lầm than tưởng chừng khiến con người ta bị tha hóa vì miếng ăn, vì cái sự sống mòn mỏi này nhưng không lão Hạc vẫn là lão Hạc. Lão đau đớn đến ứa máu tim gan, ân hận, tự trách mình là một kẻ khốn nạn đến mức lừa bán một con chó bởi lão vẫn nguyên vẹn tình yêu, sự lương thiện của một lão nông. Đến bức đường cùng, lão chẳng thể mòn mỏi trên cuộc đời này nữa, lão cũng không muốn động vào những đồng tiền mà lão tích góp cho đứa con trai, lão càng không muốn nốt gót Binh Tư làm một kẻ trộm chó. Thế nên, lão đã kết thúc cuộc đời mình trong đau đớn và vật vã bằng một miếng bả chó của Binh Tư. Dù cuộc sống này có khốn nạn, đói khổ đến đâu, đen tối đến nhường nào cũng chẳng thể nào làm vấy bẩn được lòng tự trọng và sự lương thiện vốn có của lão nông chân chất ấy. Nhưng còn Chí Phèo thì lại khác, hắn đã bị tha hóa, biến chất, trở thành một kẻ hận người, hận làng Vũ Đại và hận đời, đi đến đâu hắn cũng chửi, bất cứ ai hắn cũng chửi, hắn trở thành một kẻ màn trời chiếu đất sống vất vưởng. Để rồi hắn quay lại làm tay sai cho chính kẻ biến hắn thành thế này. Đến khi hắn gặp được thị Nở, tưởng chừng hắn đã được sống lại, được trở lại làm người nhưng không bà cô thị Nở và cái xã hội ấy lại một lần nữa đẩy hắn quay lại con đường tăm tối, thù hận đời ấy. Nhưng chỉ khác là lúc này hắn đã nhận ra kẻ thù của mình không phải là bà cô thị Nở mà chính là Bá Kiến, kẻ đại diện cho xã hội thối nát, tàn bạo này. Hắn đã giết chết Bá Kiến và cũng chính sự phản kháng vùng vẫy trong những thù hận và tuyệt vọng. Hắn cũng kết liễu cuộc đời của chính mình như là sự kết thúc của một cuộc đời đau khổ. Nhưng như vậy vẫn chưa phải là kết thúc, vì dường như một vòng lặp mới lại chuẩn bị bắt đầu khi “Đột nhiên thị thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa và vắng người qua lại”.
Hai bức tranh hiện thực đầy xót xa, đau xót và u tối đã trở thành những tác phẩm kiệt xuất và mang đầy giá trị nhân văn. Qua hai tác phẩm, tác giả đã lên án, phê phán xã hội đương thời tàn bạo, khắc nghiệt, tha hóa con người ta trở nên xấu xa. Đồng thời, Nam Cao cũng thể hiện sự thấu cảm,đồng cảm sâu sắc và thể hiện tư tưởng nhân đạo với những số phận khốn cùng, nghèo khổ và khao khát sự thay đổi của xã hội.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
Trong văn học hiện thực phê phán Việt Nam, Nam Cao là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất, với hai tác phẩm nổi tiếng "Chí Phèo" và "Lão Hạc". Cả hai đều phản ánh sâu sắc số phận của những con người nghèo khổ, bị đẩy vào đường cùng trong xã hội phong kiến thực dân tàn bạo. Tuy nhiên, mỗi tác phẩm lại mang một cách thể hiện riêng biệt, với những hình ảnh nhân vật, bối cảnh và thông điệp khác nhau. Qua sự so sánh giữa hai tác phẩm này, ta có thể thấy rõ sự tài năng của Nam Cao trong việc khắc họa số phận con người và tư tưởng nhân đạo sâu sắc.
Trước hết, về nhân vật chính, cả Chí Phèo và Lão Hạc đều là những người nông dân nghèo, bị xã hội vùi dập đến mức mất đi ý nghĩa cuộc sống. Chí Phèo từng là một thanh niên lương thiện, có ước mơ và hoài bão. Tuy nhiên, do bị Bá Kiến đẩy vào tù một cách oan ức, khi trở về làng, Chí trở thành một kẻ lưu manh, say xỉn và bạo lực, mất đi nhân tính. Hắn sống trong sự cô độc, không gia đình, không tình yêu, bị xã hội xa lánh. Chí Phèo trở thành biểu tượng của một con người bị tha hóa đến mức đánh mất hoàn toàn bản chất con người.
Trong khi đó, Lão Hạc lại khác. Ông là một người nông dân già nghèo khổ nhưng nhân hậu, đầy lòng tự trọng. Lão Hạc không bị tha hóa như Chí Phèo, mà ngược lại, ông giữ gìn phẩm giá đến phút cuối cùng. Lão Hạc quyết định bán cậu Vàng, con chó mà ông thương yêu, để dành tiền lo hậu sự cho mình, tránh gánh nặng cho con trai. Khi không còn lối thoát, lão chọn cái chết để giữ gìn lòng tự trọng, không muốn mắc nợ hay trở thành gánh nặng cho ai. Điều này cho thấy Lão Hạc vẫn giữ được bản chất tốt đẹp, dù sống trong cảnh khốn cùng.
Sự khác biệt lớn nhất giữa hai tác phẩm nằm ở quá trình tha hóa và giữ gìn nhân phẩm của nhân vật. Chí Phèo, từ một người nông dân lương thiện, trở thành "con quỷ dữ" của làng Vũ Đại. Hắn bị xã hội đẩy ra ngoài lề, mất đi cơ hội làm người. Dù trong lòng Chí vẫn có khát vọng được trở về làm người lương thiện, nhưng sự cô độc và sự từ chối của xã hội đã khiến hắn không còn lối thoát, dẫn đến bi kịch giết Bá Kiến và tự sát.
Ngược lại, Lão Hạc không bị xã hội tha hóa, mà là tự nguyện chọn con đường giữ gìn phẩm giá. Cái chết của lão mang tính chất tự nguyện, không phải vì bị ép buộc, mà vì lão muốn giữ lại lòng tự trọng cuối cùng. Qua đó, Nam Cao khắc họa lên hình ảnh một người nông dân giàu lòng tự trọng, dù nghèo khổ nhưng vẫn giữ được phẩm giá con người.
Cả hai tác phẩm đều phản ánh sâu sắc hiện thực xã hội phong kiến thực dân, nơi con người bị vùi dập, không còn đường sống. Tuy nhiên, "Chí Phèo" tập trung vào bi kịch tha hóa con người do áp lực xã hội, còn "Lão Hạc" là bi kịch của lòng tự trọng và sự cam chịu. Nếu Chí Phèo là hiện thân của sự phản kháng mãnh liệt, thì Lão Hạc lại là biểu tượng của sự chịu đựng và cam chịu trong im lặng.
Nam Cao qua hai tác phẩm đã thể hiện một cách sâu sắc nỗi đau khổ của người nông dân trong xã hội cũ, đồng thời cũng khẳng định giá trị con người qua các bi kịch của nhân vật. Sự tha hóa của Chí Phèo là tiếng kêu cứu của những con người bị xã hội bỏ rơi, còn sự chọn cái chết của Lão Hạc là minh chứng cho lòng tự trọng, cho khát vọng được sống một cách có ý nghĩa.
Tóm lại, "Chí Phèo" và "Lão Hạc" là hai tác phẩm xuất sắc của Nam Cao, mỗi tác phẩm mang một màu sắc riêng nhưng đều góp phần phản ánh hiện thực xã hội bất công và sự tha hóa của con người trong hoàn cảnh khắc nghiệt. Qua đó, Nam Cao không chỉ phản ánh hiện thực tàn bạo mà còn bộc lộ tư tưởng nhân đạo sâu sắc, đồng cảm với những số phận nghèo khổ và khao khát thay đổi xã hội.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
Bảng tin