

tìm hộ mình viết bài văn phân tích bài thơ chiều hôm nhớ nhà (ngắn gọn nhất) với ạ
mình cảm ơn
Hãy luôn nhớ cảm ơn và vote 5*
nếu câu trả lời hữu ích nhé!

Đây là câu trả lời đã được xác thực
Câu trả lời được xác thực chứa thông tin chính xác và đáng tin cậy, được xác nhận hoặc trả lời bởi các chuyên gia, giáo viên hàng đầu của chúng tôi.
Cùng là những nữ sĩ tài ba, tiêu biểu cho những hồn thơ thời kì trung đại, nếu Hồ Xuân Hương là cây bút, là tiếng nói của những người phụ nữ trung đại thì bà Huyện Thanh Quan lại là những vần thơ đậm tình yêu quê hương.Người nữ sĩ đã gửi gắm nỗi tiếng nuối, tâm sự hoài cổ, sự lạc lõng, cô đơn giữa đất trời của người lữ khách đi xa nhớ nhà, nhớ quê hương da diết. Và những cảm xúc ấy được gói gọn trong tám câu thơ của bài thơ "Chiều hôm nhớ nhà"
Bà Huyện Thanh Quan, tên thật là Nguyễn Thị Hinh, sống vào thế kỉ XIX, song năm sinh và năm mất hiện chưa rõ. Quê bà ở làng Nghi Tàm, nay thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội. Chồng bà từng làm tri huyện Thanh Quan (thuộc Thái Ninh), tỉnh Thái Bình, vì vậy người đời quen gọi bà là Bà Huyện Thanh Quan. Bà được xem là nữ sĩ tài danh hiếm có trong lịch sử văn học trung đại Việt Nam, hiện còn để lại sáu bài thơ Đường luật. Về sự nghiệp văn học, bà sáng tác không nhiều, chủ yếu làm thơ chữ Nôm theo thể Đường luật. Những tác phẩm tiêu biểu của bà gồm: Thăng Long thành hoài cổ, Qua chùa Trấn Bắc, Qua Đèo Ngang, Chiều hôm nhớ nhà, Tức cảnh chiều thu, Cảnh đền Trấn Võ, Cảnh Hương Sơn.
Bài thơ "Chiều hôm nhớ nhà" của Bà Huyện Thanh Quan là một trong những tác phẩm tiêu biểu của thơ Nôm Việt Nam thế kỷ XIX. Tác phẩm bộc lộ nỗi buồn man mác, nỗi hoài nhớ quê hương của người xa xứ, một cảm xúc quen thuộc trong tâm hồn người Việt.
Câu thơ mở đầu gợi lên cảnh sắc hoàng hôn nơi đất khách. Tác giả dùng từ "bảng lảng" để diễn tả ánh sáng mờ ảo, không rõ nét của buổi chiều, tạo nên một bức tranh vừa tinh tế vừa độc đáo. Sắc hoàng hôn lan tỏa khắp không gian, khiến cảnh vật trở nên mơ hồ, mềm mại, đem lại cảm giác huyền bí và thấm đượm nỗi niềm. Hình ảnh ấy còn thể hiện sự chuyển giao giữa ngày và đêm, gợi nên không khí vừa man mác buồn, vừa thư thái. Nhờ cách dùng từ giàu giá trị biểu cảm, người đọc có thể cảm nhận rõ nét không gian và cảm xúc của buổi chiều, qua đó thấy được vẻ đẹp nghệ thuật mà tác giả gửi gắm. Cụm từ "bảng lảng" trở thành điểm nhấn đặc sắc, góp phần làm nổi bật giá trị thẩm mỹ của câu thơ:
Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn.
Không chỉ có ánh chiều hoàng hôn mà những âm thanh buổi chiều cũng vang lên báo hiệu thời gian đã sắp kết thúc một ngày:
Tiếng ốc xa đưa vẳng trống đồn.
Tiếng ốc xa đưa và tiếng trống dồn càng làm nỗi buồn lúc hoàng hôn của người xa xứ thêm da diết. Với người ly hương, khoảnh khắc chiều tà vốn đã gợi buồn, nay lại được cộng hưởng bởi âm thanh ốc và trống vọng lên sâu thẳm trong lòng. Không gian như mở rộng theo chiều dài (tiếng ốc) và chiều cao (tiếng trống trên chòi cao), len sâu vào tâm tưởng người lữ khách, khơi dậy nỗi nhớ quê, nỗi sầu chia biệt thấm thía. Câu thơ đồng thời kết hợp ánh sáng hoàng hôn "bảng lảng" cùng âm thanh "tiếng ốc, trống dồn" tạo nên vẻ đẹp rất riêng của cảnh chiều miền quê.
Gác mái, ngư ông về viễn phố,
Gõ sừng, mục tử lại cô thôn.
Khi chiều xuống, người câu cá thả chiếc thuyền trôi nhẹ theo dòng nước trở về bến xa. Hình ảnh người ngư phủ hiện lên với tâm trạng thư thái, ung dung của kẻ sống nơi thôn quê, thoát khỏi vòng danh lợi. Động từ "gác mái" gợi cảm giác thảnh thơi, tự do.Cùng với đó là hình ảnh lũ trẻ cũng dắt trâu trở về làng. Hình ảnh mục đồng "gõ sừng" thật hồn nhiên, vô tư, biểu hiện niềm vui sống và sự tươi trẻ của chốn thôn dã.
Ngàn mai, gió cuốn chim bay mỏi,
Dặm liễu, sương sa khách bước dồn
Hai câu luận tiếp theo gợi tả cảnh chiều tà để làm nổi bật cái lạnh lẽo, cô đơn của người lữ khách trên hành trình xa xứ. Trời đã sập tối, gió mỗi lúc một mạnh làm ngàn cây xào xạc. Cánh chim mỏi mệt vội vã bay về rừng tìm tổ. Sương giăng dày đặc trên dặm liễu. Trên con đường vắng vẻ đầy gió sương ấy, chỉ có một người lữ khách lầm lũi “bước dồn” tìm chốn nghỉ chân. Hai hình ảnh "chim bay mỏi" và "khách bước dồn" làm nổi bật nỗi nhọc nhằn, cô độc như con người trở nên lạc lõng giữa thiên nhiên rộng lớn, đầy gió cuốn và sương sa. Cảnh và người hòa quyện, tạo nên nỗi buồn thấm đượm, để lại dư âm sâu lắng trong lòng người đọc. Biện pháp tu từ đảo ngữ càng nhấn mạnh sự bao la, hoang lạnh của miền đất lạ.
Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ,
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?
Chương Đài là một điển tích gắn với câu chuyện chia lìa, nhung nhớ của Hàn Hoành và Liễu Thị thời Hán xưa. Bà Huyện Thanh Quan đã mượn điển tích này một cách sáng tạo, để gợi lên nỗi buồn li biệt, nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương da diết của người lữ khách. Hình ảnh "Chương Đài" kết hợp với "lữ thứ" đã mở ra một không gian liên tưởng sâu sắc về tâm trạng cô đơn nơi đất khách. Kết thúc bài thơ là lời than thở, chất chứa tâm sự, được thể hiện qua câu hỏi tu từ. Đại từ phiếm chỉ "ai" tuy mơ hồ, nhưng ai cũng hiểu đó là những người thân yêu, là chồng, là con của nữ sĩ. "Hàn ôn" nghĩa là nóng lạnh,đó chính là nỗi lòng chất chứa bao tâm tư khó giãi bày. Người khách tha hương giữa chiều tàn đất lạ càng thấm thía nỗi cô đơn, buồn tủi, nhớ thương khôn nguôi.
Bà Huyện Thanh Quan với khả năng sáng tạo độc đáo trong việc lựa chọn ngôn từ, xây dựng hình ảnh , phép đối đã cho thấy một phong cách thơ trang nhã, tài hoa. Cảnh vật và hình tượng thơ của bà trở nên gần gũi, quen thuộc với bối cảnh làng quê thân thuộc, mang đậm tâm hồn và bản sắc dân tộc. Bài thơ "Chiều hôm nhớ nhà" như một đóa hoa nghệ thuật thấm đượm tình thương và nỗi nhớ, để lại trong lòng người đọc cảm giác bâng khuâng, xao xuyến.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
Bà Huyện Thanh Quan, tên thật là Nguyễn Thị Hinh, bà là một trong những nhà thơ nữ nổi tiếng nhất thời trung đại. Thơ của bà hầu hết được viết bằng chữ Nôm, với thể Đường luật có niêm, luật chặt chẽ, bút pháp điêu luyện cùng ngôn từ chau chuốt. Và ''Chiều hôm nhớ nhà'' là bài thơ nổi tiếng nhất của nữ sĩ.
Chủ đề nhớ nước, nhớ nhà là chủ đề có trong hầu hết văn chương và thơ ca Việt Nam. Đó là nơi mà tác giả gửi gắm những tâm tư, tâm trạng, tình cảm và nỗi buồn man mác.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh, bức tranh phong cảnh heo hút, hiu quạnh trong hai câu đề:
Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn
Tiếng ốc xa đưa vẳng trống đồn.
Ở hai câu đề, khoảng thời gian là buổi chiều tối. Khi bóng hoàng hôn dần buông xuống, đâu đó lờ mờ ánh sáng của ngày tàn. Đồng thời, trong không gian đó, tác giả đã có thể nghe thấy ''tiếng ốc xa đưa'' và tiếng ''vẳng trống đồn'', những âm thanh này vốn không xa lạ đối với người đọc, nhưng khi đặt vào khung cảnh trời chiều, nơi đất khách quê người thì lại gợi lên sự bâng khuâng, se buồn trong lòng nữ sĩ.
Tâm trạng của tác giả đã phần nào được hiểu trong cách lựa chọn thời gian, không gian và âm thanh. Trong cảnh chiều, trong tiếng gọi ngày tàn đó, hình ảnh con người hiện ra qua hai câu thực:
Gác mái ngư ông về viễn phố
Gõ sừng mục tử lại cô thôn.
Câu thơ với nhịp 2/5 làm cho ta có cảm giác như hoạt động của con người chốn đây đang giảm dần, dường như ''ngư ông'' và ''mục tử'' trong hai câu thực chuẩn bị đi về, về nơi gọi là nhà, về nơi gọi là tổ ấm. Đặc biệt, nghệ thuật sử dụng từ Hán Việt ''ngư ông'', ''viễn phố'', ''mục tử'' và ''cô thôn'' tạo cho bài thơ một sư trang trọng và cổ kính, đầy hấp dẫn.
Song với đó, dấu ấn của nhân vật trữ tình thoáng hiện ra rồi lại chìm khuất giữa không gian thiên nhiên bao la qua hai câu luận:
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi
Dặm liễu sương sa khách bước dồn.
Hình ảnh ''ngàn mai'' được đặt trong hình ảnh ''gió cuốn'' đã gợi lên sự rộng lớn của không gian như muốn nuốt chửng những cánh chim nhỏ nhoi đó. Hay hiểu đơn giản là vì khoảng trời trước mắt của nữ sĩ dường như vô tận, hình ảnh chim bay mỏi mà vẫn chưa tới nơi, khách bước dồn mà vẫn chưa tới chốn. Những hình ảnh, sự vật ấy cho thấy tâm trạng chán chường, buồn bã của nhà thơ. Tâm trạng ấy dẫn đến hai câu kết:
Kẻ chốn Chương Đài người lũ thứ
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn.
Không có ai để tâm sự nơi đây, trời đất thì bao la, vắng lặng, trống trải khiến cho tác giả cảm thấy cô đơn và buồn bã. Qua những hình ảnh, sự vật mà bà để lại trong bài thơ lại càng cho ta thấy sự vắng lặng của nơi đất khách quê người.
Đúng với tên gọi, bài thơ ''Chiều hôm nhớ nhà'' là một bài thơ đậm ân tình và cảm xúc của tác giả đối với quê hương của bà. Nữ tác giả đã viết bài thơ để bày tỏ nỗi lòng, tâm sự thương nhà nhớ quê. Đồng thời, tác phẩm trên được viết theo thể thơ Đường luật, với niêm, luật chặt chẽ và cách gieo vần cực kì chau chuốt.
Bài thơ ''Chiều hôm nhớ nhà'' đã khắc hoạ khung cảnh thiên nhiên bao la, thoáng đãng mà heo hút, để lại trong tâm hồn tác giả một nỗi buồn man mác khó mà diễn tả. Đồng thời cũng ca ngợi sự tài hoa trong cách sử dụng các phép tu từ và từ Hán Việt một cách tỉ mỉ của nữ sĩ.
$#$ Oanhkieu03398
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
Bảng tin