Hãy viết một bài văn phân tích, đánh giá nội dung và những đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm thuật hứng - bài 24 (Nguyễn Trãi)
Hãy luôn nhớ cảm ơn và vote 5*
nếu câu trả lời hữu ích nhé!
Đây là câu trả lời đã được xác thực
Câu trả lời được xác thực chứa thông tin chính xác và đáng tin cậy, được xác nhận hoặc trả lời bởi các chuyên gia, giáo viên hàng đầu của chúng tôi.
Nguyễn Trãi là một nhà thơ lớn của dân tộc, ông đã để lại nhiều tác phẩm văn chương sâu sắc phản ánh tư tưởng yêu nước, nhân nghĩa và quan niệm sống thanh cao. Bài thơ "Thuật hứng" bài 24 nằm trong chùm thơ "Thuật hứng" của tác giả thể hiện quan niệm sống nhàn nhưng không buông xuôi, giữ vững phẩm chất trung hiếu và luôn hòa hợp với thiên nhiên. Tác phẩm không chỉ mang giá trị nội dung sâu sắc mà còn chứa đựng những đặc sắc nghệ thuật độc đáo.
Mở đầu bài thơ, Nguyễn Trãi đã khẳng định quan niệm của mình về công danh và sự nhàn tản:
Công danh đã được hợp về nhàn,
Lành dữ âu chi thế ngợi khen.
Những năm tháng chinh chiến và danh vọng dường như đã qua đi, tác giả tìm về cuộc sống nhàn tản. Tuy nhiên, chữ "nhàn" ở đây không phải là sự buông bỏ trách nhiệm mà là một sự chủ động tìm đến cuộc sống thanh đạm, an nhiên. Nguyễn Trãi không màng đến những lời khen chê của thế tục bởi ông đã nhận ra bản chất vô thường của công danh. Cách nói triết lý nhẹ nhàng, thâm trầm trong câu thơ khiến ta liên tưởng đến tư tưởng thoát tục của ông trong nhiều bài thơ khác như "Côn Sơn ca" với câu: "Côn Sơn có suối nước trong / Ta nghe suối chảy như đàn cầm ca." Ở đó, thiên nhiên trở thành chốn bình yên cho tâm hồn thi nhân.
Chuyển sang cặp câu tiếp theo, Nguyễn Trãi tiếp tục thể hiện sự hòa mình với thiên nhiên:
Ao cạn vớt bèo cấy muống,
Trì thanh phát cỏ ương sen.
Những công việc tưởng chừng đơn giản như vớt bèo, cấy muống, phát cỏ, ương sen lại chứa đựng cả một triết lý sống sâu sắc. Nguyễn Trãi coi lao động là một phần tất yếu của cuộc sống, là cách để hòa hợp với thiên nhiên. Hình ảnh "ao cạn", "trì thanh" (ao nước trong) gợi lên một không gian thuần khiết, bình dị nhưng cũng đầy chất thơ. Điều này cũng tương đồng với quan niệm sống ẩn dật của ông trong bài thơ "Bảo kính cảnh giới" bài 43: "Thu ăn măng trúc, đông ăn giá / Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao." Một cuộc sống thanh đạm nhưng tràn đầy sự tự do và hòa quyện với thiên nhiên.
Không chỉ tìm thấy niềm vui trong lao động, tác giả còn cảm nhận sự giàu có trong những điều giản dị:
Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc,
Thuyền chở yên hà nặng vạy then.
Ở đây, kho tàng của Nguyễn Trãi không phải là vàng bạc, châu báu mà là phong, nguyệt, yên, hà - những hình ảnh tượng trưng cho thiên nhiên tươi đẹp. Nguyễn Trãi không cần những vật chất xa hoa, chỉ cần trời đất bao la cũng đủ để ông cảm thấy giàu có. Cách nói ẩn dụ "thuyền chở yên hà" (sương khói) vừa lãng mạn vừa gợi lên một tâm hồn tự tại, phiêu diêu giữa đất trời. Lối diễn đạt này làm ta nhớ đến hình ảnh "gió trăng chứa một thuyền đầy" trong bài "Vịnh Tiền Xích Bích" - một sự hưởng thụ thiên nhiên trọn vẹn mà không vướng bận danh lợi.
Khép lại bài thơ, Nguyễn Trãi nhấn mạnh tấm lòng trung hiếu bền vững của mình:
Bui có một lòng trung liễn hiếu,
Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen.
Dù đã rời xa chốn quan trường, Nguyễn Trãi vẫn giữ vững lòng trung với nước, hiếu với dân. Ông ví phẩm chất ấy như viên ngọc quý, dù bị mài giũa cũng không mòn, dù có nhuộm cũng không đổi màu. Cách ví von này vừa giản dị nhưng cũng rất sâu sắc giống như cách ông từng khẳng định trong "Bình Ngô đại cáo": "Như nước Đại Việt ta từ trước / Vốn xưng nền văn hiến đã lâu." Một tấm lòng trung quân, ái quốc không thể bị phai mờ theo năm tháng.
Về nghệ thuật, bài thơ sử dụng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật với ngôn ngữ hàm súc, hình ảnh giản dị mà giàu ý nghĩa. Nguyễn Trãi đã khéo léo sử dụng các biện pháp nghệ thuật như đối, ẩn dụ và tượng trưng để thể hiện quan niệm sống thanh cao của mình. Ngoài ra, bài thơ còn mang đậm chất triết lý, thể hiện một tâm hồn lớn luôn hướng đến sự hòa hợp với thiên nhiên và trung hiếu với dân tộc.
Bài thơ Thuật hứng bài 24 của Nguyễn Trãi không chỉ thể hiện lý tưởng của bậc chính nhân quân tử mà còn phản ánh sâu sắc tâm tư, tình cảm của tác giả trước thời cuộc. Qua việc sử dụng hình ảnh thiên nhiên hài hòa với đạo lý làm người, Nguyễn Trãi đã khắc họa rõ nét tấm lòng trung nghĩa, thanh cao của mình giữa thời thế đầy biến động. Tư tưởng và phong cách thơ của ông không chỉ dừng lại ở việc bày tỏ chí hướng cá nhân mà còn trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho hậu thế. Thuật hứng bài 24 vì thế không chỉ là một tác phẩm thơ ca mà còn là một tuyên ngôn về nhân cách và đạo lý làm người.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
Danh sỹ Nguyễn Mộng Tuân từng cảm phục mà hạ bút: “ Gió thổi hây hây mái tóc vàng, người là ông tiên trong tòa ngọc, cái tài làm hay, làm đẹp cho nước từ xưa chưa có bao giờ”. Ông tiên ở đây chính là Nguyễn trãi, chẳng những là nhà thao lược đại tài mà còn là cây bút hết mực tài năng. Nếu văn thơ chữ Hán của Ức Trai là ngọn lửa hừng hực lòng yêu nước thì thơ “ Quốc Âm” lại nhẹ nhàng sâu lắng, đọng lại một tiếng lòng thi nhân mê đắm, trìu mến với cỏ cây tạo vật. Trong đó “ Thuật Hứng – số 24” là một giai phẩm. Điều làm nên đặc sắc của bài thơ chính là chân dung cuộc sống ở làng quê dung dị, mộc mạc với công việc dân dã, từ đó thể hiện tấm lòng “ Ưu dân ái quốc” của nhà thơ. Bài thơ có giá trị nội dung và nghệ thuật đặc sắc.
“Công danh đã được hợp về nhàn,
Lành dữ âu chi thế nghị khen.
Ao cạn vớt bèo cấy muống,
Đìa thanh phát cỏ ương sen.
Kho thu phong nguyệt, đầy qua nóc,
Thuyền chở yên hà nặng vạy then.
Bui có một lòng trung lẫn hiếu,
Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen.”
Điểm sáng đầu tiên của bài thơ chính là nhan đề “ Thuật hứng” có nghĩa là bày tỏ sự hứng thú của riêng mình. Đây là bài thơ thứ 24 trong chùm thơ Thuật Hứng thuộc “Quốc Âm thi tập” Chỉ bằng 2 chữ nhưng nhan đề bài thơ đã phần nào hé lộ cho người đọc chủ đề của tác phẩm: Đó là hoàn cảnh và cuộc sống sinh hoạt ở nơi thôn ấp, nhà thơ hòa mình vào thiên nhiên. Qua đó bộc lộ một tấm lòng trung với nước, hiếu với dân. Với chủ đề này ta có thể chia bài thơ làm 2 phần: Sáu câu thơ đầu miêu tả cuộc sống ung dung, tự tại, giản dị và đơn sơ, sống thuận theo tự nhiên của nhà thơ, hai câu thơ cuối là nỗi buồn tâm tư, thầm kín của nhân vật chữ tình. Như vậy mạch cảm xúc của nhà thơ di từ việc kể lại cuộc sống đến tâm trạng thi nhân. “Thuật hứng” đã thể hiện một cách đẹp đẽ, sâu sắc những tư tưởng, tỉnh cảm cao đẹp của Ức Trai như coi thường danh lợi, tích sống nhàn trong cuộc đời thanh bạch, lúc nào cũng giữ lòng trung hiếu son sắt, thủy chung với dân với nước.
Nếu như thần của âm nhạc là giai điệu, của hội họa là màu sắc thì cái thần của tác phẩm văn học chính là hình tượng. Đến với “ Thuật hứng 24” ta thấy được hình tượng chính của bài thơ là nhân vật trữ tình đã được NT khắc họa chân thực trước hết qua vẻ đẹp cuộc sống.
“Công danh đã được hợp về nhàn,
Lành dữ âu chi thế nghị khen.”
“Công danh” là điều mà các nhà nho xưa luôn hướng tới, chăm chỉ học hành luyện tập để cống hiến cho đất nước. Bàn về điều này, Nguyễn Công Trứ từng khẳng định:
“ Đã có tiếng nói trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông”
Tuy nhiên Nguyễn Trãi đã thể hiện được sự thanh nhàn khi trút bỏ gánh nặng công danh, bỏ qua cái ồn ào ganh ghét trong triều đình để tìm về với cuộc sống thanh sơ an nhàn. Câu thơ “ Lành dữ âu chi thế nghị khen” đã nói lên thái độ đúng đắn khi chẳng phải quan tâm gì trước mọi chuyện thị phi “ lành giữ”, “khen chê” nữa. Chỉ cần sống tâm mình sao phải lo miệng lưỡi thế gian. Một giọng điệu khoan thai đã vẽ lên cuộc đời ung dung tự tại. Chính vì thế mà ông an nhàn hòa mình vào làng quê:
“Ao cạn vớt bèo cấy muống,
Đìa thanh phát cỏ ương sen.”
Hai câu thơ trên đã cho độc giả thấy được một NT giản dị, mộc mạc thế nào: “Ao cạn – đìa thanh”, “vớt bèo cấy muống - phát cỏ, ương sen” đối nhau thật tài tình làm hiện lên một cuộc đời cần mẫn, thanh bạch đáng tự hào. Đây là những hình ảnh chỉ có ở những làng quê, những nông dân chân lấm tay bùn. NT đã tự biến mình thành một lão nông tri điền. Cuộc sống chẳng cao sang có sơn hào hải vị, chỉ đơn giản là “muống” và “sen” nhưng giản dị và thanh cao. Chính bởi cái tâm hồn trong sáng, thanh bạch ấy mà ông đã cảm nhận được vẻ đẹp thiên nhiên:
“Kho thu phong nguyệt, đầy qua nóc,
Thuyền chở yên hà nặng vạy then.”
Bút pháp phóng đại cùng phép đối hài hòa đã tô điểm cho vẻ đẹp huền ảo nơi làng quê. Tác giải đã “ khối lượng hóa” hình ảnh kho thu bằng lượng từ “ đầy”. Con thuyền thi nhân chỉ chở “gió”, “ trăng” mà cũng “nặng” làm “vạy” đi những chiếc then. Hai câu thơ không chỉ thành công tả cảnh mà còn cùng với những câu thơ trước làm đẹp thêm vẻ đẹp cuộc sống thể chất lẫn tinh thần của nhà thơ. Đọc hai câu thơ trên khiến ta chợt nhớ đến những vần thơ đầy xúc cảm của Nguyễn Công Trứ:
“ Kho thu chứa một thuyền đầy
Của kho vô hạn biết ngày nào rơi”
Từ vẻ đẹp cuộc sống thôn quê thuần hậu, hình tượng nhân vật trữ tình lại được tác giả thể hiện ở hai câu thơ cuối còn là tấm lòng thi nhân
“Bui có một lòng trung lẫn hiếu,
Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen.”
Vượt lên cái thú thanh bình nhàn tản với “phong nguyệt” và “yên hà”, Ức Trai vẫn tâm niện một lòng son sắt với giang sơn. Tấm lòng ấy lớn lao, cao cả và vĩnh hằng suốt một đời người. Câu thơ cuối cùng có 6 chữ như một điểm kết tụ tâm hồn của nhà thơ, chẳng những thể hiện cái tài thi ca mà còn là một lời khẳng định, một lời thề với một tấm lòng trung với nước, hiếu với dân. Dù có mài có nhuộm, dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào tấm lòng ấy vẫn nặng tình với dân với nước mãi không thể phôi phai. Đó đã trở thành một nét đẹp trong thơ Ức Trai.
“ Dễ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giầu đủ khắp đòi phương”
(Cảnh ngày hè)
Góp phần làm lên thành công cho bài thơ phải kể đến giá trị nghệ thuật. Tác giả đã sử dụng thể thơ thất ngôn bát cú đan xen những câu thơ lục ngôn ấn tượng. Ngôn ngữ thơ giản dị, cô đọng hàm súc, dung dị mà giầu sức gợi, các từ ngữ thuần việt gần gũi kết hợp những từ ngữ Hán việt đã thành công khắc họa cuộc sống nơi thôn ấp bình dị của nhà thơ. Đồng thời việc sử dụng những hình ảnh chân thực, dân dã đã đem đến cho người đọc cảm giác quen thuộc và là đặc trưng của một vùng quê VN. Ngoài ra còn phải kể đến các biện pháp nghệ thuật như đối, liệt kê, bút phá phóng đại đã diễn tả chân dung đời sống và vật chất tinh thần của thi nhân, làm đẹp thêm cho khung cảnh làng quê. Tất cả những đặc sắc nghệ thuật trên đã khắc họa chân dung cuộc sống của NT, một thái độ và khí tiết thanh cao, đồng thời khẳng định, gửi gắm một tấm lòng son sắt, ái quốc, ưu dân.
Có thể nói “Thuật hứng 24” là bài thơ hay về cảm xúc, đẹp về ngôn từ. Bài thơ đã trở thành tác phẩm tiêu biểu cho sự nghiệp sáng tác của NT. Ức Trai đã nói lên những nỗi niềm sâu xa, một lòng ưu ái về dân về nước, để rồi tình cảm thiêng liêng ấy nở hoa dưới ngòi bút tài tình của ông. Bài thơ quả là dẫn chứng tiêu biểu cho câu nói “ Thơ khởi phát từ lòng người”. Tác phẩm đã cho ta ý thức được tình yêu quê hương đất nước, bồi dưỡng nối sống hòa hợp với thiên nhiên và thêm biết ơn, trân trọng công lao to lớn của cha ông đi trước.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
Bảng tin