

Hãy luôn nhớ cảm ơn và vote 5*
nếu câu trả lời hữu ích nhé!

A. MB: Là nhà văn xuất sắc của trào lưu văn học hiện thực phê phán 1930 – 1945. Sáng tác của ông trước CM tập trung vào 2 đề tài chủ yếu: người nông dân và người trí thức tiểu tư sản. Nam Cao không chỉ là nhà văn hiện thực xuất sắc mà ông còn là một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn, ông luôn đau xót và bất bình trước tình cảnh những con người lương thiện bị đầy đoạ trong cái đói, cái khổ, bị lăng nhục, bắt hủi một cách tàn nhẫn và bất công, ông đã đứng ra bênh vực họ, minh oan và chiêu tuyết cho họ. Sáng tác của Nam Cao chứa đựng những yếu tố cách tân quan trọng, đánh dấu một bước tiến mới của văn xuôi VN: từ cách nhìn mới, xây dựng cốt truyện, tổ chức kết cấu, phương thức miêu tả nhân vật, đến giọng điệu, lời văn, đặc biệt là nghệ thuật miêu tả, phân tích tâm lí nhân vật. Viết về đề tài người nông dân trước cách mạng, “Lão Hạc” là một truyện ngắn xuất sắc của nhà văn Nam Cao, đăng báo lần đầu năm 1943. Truyện đã thể hiện một cách chân thực, cảm động số phận đau thương của người nông dân trong xã hội cũ và phẩm chất cao quý, tiềm tàng của họ. Đồng thời, truyện cũng cho thấy tấm lòng yêu thương, trân trọng đối với người nông dân và tài năng nghệ thuật xuất sắc của nhà văn Nam Cao, đặc biệt trong việc miêu tả tâm lý nhân vật và cách kể truyện.
B. TB
1. Phân tích nhân vật Lão Hạc.
a. Lão Hạc là một con người nghèo khổ, bất hạnh:
- “Lão Hạc” là một truyện ngắn chan chứa tình người, lay động bao nỗi xót thương khi tác giả kể về
cuộc đời cô đơn, bất hạnh và cái chết đau đớn của một lão nông nghèo khổ. Nhân vật lão Hạc để lại trong lòng ta bao ám ảnh khi nghĩ về số phận con người, số phận người nông dân VN trước CM tháng 8.
- Ba sào vườn, một túp lều, một con chó vàng... đó là tài sản, vốn liếng của lão Hạc.
- Vợ chết đã lâu, cảnh nhà nghèo “gà trống nuôi con” khiến lão không đủ tiền cưới vợ cho con nên
anh con trai độc nhất phẫn chí bỏ đi đồn điền cao su biền biệt 5, 6 năm chưa về.
- Lão Hạc bị ốm một trận ốm kéo dài 2 tháng 18 ngày, bao số tiền bán hoa lợi trong vườn chắt chiu
dành dụm được lão đã chi tiêu gần hết trong trận ốm. Tiếp theo là một trận bão to phá sạch hoa màu trong vườn của lão. Làng mất nghề sợi, thêm nữa sau trận ốm, lão yếu người đi ghê lắm, chẳng ai thuê lão đi làm nữa.
- Vắng con, lão chỉ còn cậu Vàng làm bầu bạn. Nhưng cậu Vàng làm lão tốn kém quá. (cậu Vàng ăn
khoẻ, mỗi ngày cậu ấy ăn “bỏ rẻ cũng mất hào rưỡi, hai hào”. Không còn cách nào khác, lão phải bán cậu Vàng đi.
- Đói khổ, túng bấn, cô đơn ngày thêm nặng nề, lão Hạc chỉ ăn khoai, ăn củ chuối, ăn sung luộc, ăn
rau má, thỉnh thoảng một vài củ ráy, hay bữa trai, bữa ốc... Nghĩa là lão vớ được thứ gì, lão ăn thứ ấy.
- Cuối cùng lão đã ăn một liều bả chó để tự tử. Lão chết đau đớn thê thảm: “đầu tóc rũ rượi, mắt long sòng sọc, tru tréo, bọt mép sùi ra... vật vã đến 2 giờ đồng hồ rồi lão mới chết! Cái chết thật dữ dội.”
=> Số phận một con người, một kiếp người như lão Hạc thật đáng thương, nhưng trong cảnh đời nghèo khó, bất hạnh ấy ta lại thấy lấp lánh những nét đẹp trong nhân cách lão Hạc: một người cha hết lòng vì con, sẵn sàng chấp nhận cái chết để hi sinh cho con; một người nông dân dù đến bước đường cùng vẫn giữ trọn nhân cách của mình “chết trong còn hơn sống đục”.
b. Lão Hạc là con người giàu tình cảm yêu thương, có tấm lòng nhân hậu:
Tình cảm của lão Hạc đối với cậu Vàng:
- Vợ chết, con ở xa, lão Hạc dồn tình cảm cho con chó Vàng, coi nó như người bạn thân thiết, như
con, như cháu của lão:
+ Gọi nó là cậu Vàng như bà lão hiếm hoi gọi đứa con cầu tự
+ Chăm sóc nó một cách chu đáo: cho nó ăn trong một cái bát như nhà giàu, ăn gì lão cũng chia cho nó cùng ăn; khi uống rượu, lão cứ nhắm vài miếng lại gắp cho nó một miếng như người ta gắp thức ăn cho con trẻ.
+ Trò chuyện với cậu Vàng, mắng yêu nó , nói với nó như nói với một đứa cháu bé về bố của nó.
- Lão Hạc phải bán cậu Vàng vì lão không còn sự lựa chọn nào khác. Lão không nuôi nổi nó nữa và
sợ phải tiêu lạm vào số tiền dành dụm cho con. Đó là nỗi đau đớn của lão. Bởi vậy lão cứ đắn đo, do dự mãi khi quyết định bán chó.
- Sau khi bán cậu Vàng, lão Hạc đau đớn, xót xa day dứt.
+ “Lão cố làm ra vui vẻ nhưng trông lão cười như mếu và đôi mắt ầng ậng nước.”; “ Mặt lão đột nhiên co rúm lại, những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão nghẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc...”
-> Câu văn đã diễn tả được nỗi đau đớn sự khổ tâm, sự ăn năn và niềm xót thương của lão Hạc với
cậu Vàng lên đến tột độ, không sao kiềm chế nổi nên người già mà lão khóc như con nít. Tuổi già nước mắt cạn kiệt, cả bộ mặt phải co dúm lại, mới ép được chút nước mắt chảy ra: “Thì ra tôi già bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó, nó không ngờ tôi nỡ tâm lừa nó”.
-> Lão Hạc quá lương thiện, ông thấy lương tâm đau nhói khi nhìn ra trong đôi mắt con chó bất ngờ bị trói có cái nhìn trách móc. Phải có trái tim vô cùng nhân hậu và trong sạch thì con người mới bị giày vò lương tâm đau đớn đến thế, mới cảm thấy có lỗi với một con chó đến mức như vậy.Điều này, cho người đọc thấy sự ngay thẳng và cao đẹp trong nhân cách lão Hạc.
=> Xung quanh việc lão Hạc bán cậu Vàng, chúng ta nhận thấy đây là một con người sống rất tình
nghĩa, thuỷ chung, rất trung thực. Đặc biệt từ đây ta càng thấm thía lòng thương con sâu sắc của người cha nghèo khổ.
Tình cảm của lão Hạc với anh con trai:
- Từ ngày anh con trai phẫn chí bỏ đi đồn điền cao su vì không có đủ tiền cưới vợ, lão Hạc vừa thương
con, vừa mong mỏi đợi chờ, vừa luôn mang tâm trạng ăn năn, cảm giác “mắc tội” bởi không lo liệu nổi cho
con. Người cha tội nghiệp này còn mang cảm giác day dứt là không cho con bán vườn lấy vợ.
- Lão cố gắng tích cóp dành dụm để khi về con trai có tiền lấy vợ.
- Thương cậu Vàng, chỉ còn cậu Vàng là nỗi khuây khoả tuổi già cô đơn nhưng lão vẫn phải bán cậu
vàng để không bị tiêu lạm vào số tiền dành dụm cho con.
- Lão cố giữ trọn vẹn mảnh vườn cho anh con trai. Trước khi chết, lão đã nhờ cậy ông giáo trông coi
giúp mảnh vườn để khi về còn có mảnh đất để làm ăn.
- Cái chết trong sạch của lão cũng là để giữ trọn vẹn tiếng thơm cho con. Lão thà chết chứ không tiêu
vào tài sản của con, nhất quyết không chịu bán 3 sào vườn mẹ nó để lại cho nó.
=> Lão Hạc quả là một người cha nhân hậu có tình thương con sâu nặng.
c. Lão Hạc còn là một người nông dân giàu lòng tự trọng:
- Trong đói khổ cùng cực phải ăn củ chuối, củ ráy... ông giáo mời lão ăn khoai, uống nước chè, lão
cười hồn hậu và khất “ông giáo để khi khác”
- Ông giáo tìm cách giúp đỡ lão một cách ngấm ngầm, lão từ chối “một cách gần như hách dịch”
- Trước khi chết, lão gửi lại ông giáo 30 đồng bạc để “lỡ có khi chết... gọi là của lão có tí chút...” vì
lão không muốn làm phiền đến hàng xóm.
- Nam Cao còn tinh tế đã đưa nhân vật Binh tư xuất hiện ở phần cuối truyện tạo nên một sự đối sánh đặc sắc làm nổi bật tấm lòng trong sạch, tự trọng của lão Hạc một lão nông chân quê đáng trọng.
Tóm lại: cuộc đời lão Hạc đầy nước mắt, nhiêu đau khổ và bất hạnh. Sống thì âm thầm, nghèo đói,
cô đơn; chết thì quằn quại, đau đớn. Tuy thế, lão Hạc lại có biết bao phẩm chất tốt đẹp hiền lành, chất phác, vị tha, nhân hậu, trong sạch và tự trọng... Lão Hạc là điển hình về người nông dân VN trong xã hội cũ được nhà văn Nam Cao miêu tả với biết bao trân trọng, xót thương, chứa chan tin thần nhân đạo thống thiết.
3. Nhân vật ông giáo:
- Đọc truyện “Lão Hạc” ta bắt gặp bao con người, bao số phận, bao mảnh đời đáng thương, bao tấm lòng đáng trọng. Giữa bóng tối cuộc đời cùng quẫn sau luỹ tre làng, ta vẫn tìm thấy ít nhiều ánh sáng tâm hồn nhân hậu, chứa chan yêu thương. Bên cạnh lão Hạc, nhân vật ông giáo để lại bao ấn tượng dối với mỗi chúng ta về người trí thức nghèo trong xã hội.
- Không rõ tên họ là gì. Hai tiếng “ông giáo” đã khẳng định vị thế con người giữa làng quê trước năm 1945 “nhièu chữ nghĩa, nhiều lí luận, người ta kiêng nể”. Hai tiếng “ông giáo” từ miệng lão Hạc nói ra lúc nào cũng đượm vẻ thân tình, cung kính, trọng vọng: “Cậu Vàng đi đời rồi ông giáo ạ!”; “Vâng ông giáo dạy phải...”
- Con người “nhiều chữ nghĩa” ấy lại nghèo. (Sau một trận ốm nặng ở Sài Gòn về quần áo bán gần
hết, chỉ còn một va li sách. Nếu lão Hạc quí cậu Vàng bao nhiêu thì ông giáo quí những quyển sách của mình bấy nhiêu. Cái nghèo cứ đeo đẳng mãi. “Đời người ta không chỉ khổ một lần”. Quí sách là vậy mà ông giáo cứ phải bán sách dần đi, cuối cùng chỉ còn lại 5 quyển với lời nguyền: “dù có phải chết cũng không bán”. Thế rồi, như một kẻ cùng đường phải bán máu. Đứa con thơ bị chứng kiết lị gần kiệt sức, ông giáo phải bán nốt đi 5 quyển sách, gia tài cuối cùng của người trí thức nghèo “Lão Hạc ơi! Ta có quyền giữ cho ta một tí gì đâu?” . Lời than ấy cất lên nghe thật não nuột, thể hiện một nhân cách đẹp trước sự khốn cùng: biết sống, dám hi sinh vì cuộc sống!
- Ông giáo là người có trái tim nhân hậu đáng quí. Ông là chỗ dựa tinh thần, là niềm an ủi, tin cậy của lão Hạc. Ông giáo là nơi để lão Hạc san sẻ bao nỗi đau, nỗi buồn. Nhờ đọc hộ một lá thư, nhờ viết hộ một lá thư cho đứa con trai đi phu đồn điền. Tâm sự về mảnh vườn và chuyện đứa con trai “phẫn chi” khônglấy được vợ. San sẻ nỗi đau buồn sau khi bán cậu Vàng cho thằng Mục, thằng Xiên... Có lúc là điếu thuốc lào, một bát nước chè xanh, một củ khoai lang... Ông giáo đã đồng cảm, chia sẻ với lão Hạc với tất cả tình người.
- Ông giáo còn ngấm ngầm giúp đỡ lão Hạc khi biết lão Hạc đã nhiều ngày ăn rau, ăn khoai, ăn củ
ráy... Trong lúc đàn con của ông giáo cũng đang đói, cái nghĩa cử “lá lành đùm lá rách” ấy mới cao đẹp biết bao!
- Ông giáo nghèo mà đức độ, là người để lão Hạc “chọn mặt gửi vàng”. Trước khi tìm đến với cái chết lão Hạc đã tin cậy nhờ vả ông giáo: trông nom mảnh vườn cho con trai, cầm giúp 30 đồng bạc để phòng khi lão chết “gọi là của lão có tí chút...”
- Trước cái chết dữ dội của lão Hạc, ông giáo xót xa, khẽ cất lời than trước vong linh người láng giềng hiền lành, tội nghiệp: “Lão Hạc ơi! Lão Hạc ơi! Lão hãy yên lòng mà nhắm mắt! Lão đừng lo gì cho cái vườn của lão. Tôi sẽ cố giữ gìn cho lão. Đến khi con trai lão về, tôi sẽ trao lại cho hắn và bảo hắn: Đây là cái vườn mà ông cụ thân sinh ra anh đã cố để lại cho anh trọn vẹn, cụ thà chết chứ không chịu bán đi một sào...”
-> Lời hứa của ông giáo và những giọt lệ xót xa của ông chứng tỏ một nhân cách cao đẹp, đáng trọng.
=> Có thể coi hình tượng ông giáo chính là dáng dấp hình bóng của nhà văn Nam Cao . Nhân vật ông giáo là chiếc gương soi sáng cuộc đời và tâm hồn lão Hạc, đã góp phần tô đậm giá trị nhân đạo của truyện ngắn đặc sắc này.
4. Giá trị nghệ thuật đặc sắc của truyện
“Lão Hạc” là một trong những truyện ngắn hay nhất của cây bút truyện ngắn bậc thầy Nam Cao. Tài
nghệ bậc thầy đó thể hiện ở nhiều khía cạnh và có những điểm nổi bật sau :
- Xây dựng nhân vật :
+ Không được miêu tả thật kĩ về ngoại hình, cũng không có nhiều hành động, song được tập trung soi sáng từ bên trong.
+ Tác giả đã đi sâu vào những tâm tư, những lo tính của lão Hạc chung quanh việc bán “cậu Vàng” và việc lặng lẽ chuẩn bị cho cái chết, chính từ đó mà số phận đau thương, tính cách độc đáo của nhân vật hiện ra thật ró nệt. Nhân vật lão Hạc chân thực, sinh động, có bề dầy xã hội và đồng thời có cá tính độc đáo, chủ yếu được nhà văn khắc hoạ bằng miêu tả tâm lý.
- Cách dựng truyện, bút pháp trần thuật linh hoạt, mới mẻ.
- Truyện rất mực chân thực, đồng thời thấm đượm cảm xúc trữ tình.
=> Vừa tỉnh táo, chân thực, vừa trữ tình thắm thiết và đậm đà ý vị triết lí, đó chính là đặc điểm bút
pháp văn xuôi Nam Cao được thể hiện rõ nệt trong “Lão Hạc”.
C. KB: Tác phẩm “Lão Hạc” thật vô cùng xúc động, chứa chan tình người, lay động bao nỗi xót thương khi tác giả kể về cuộc đời cô đơn bất hạnh và cái chết đau đớn của một lão nông nghèo khổ. Nhân vật Lão Hạc đã để lại trong lòng ta bao ám ảnh khi nghĩ về số phận con người, số phận người nông dân Việt Nam trong xã hội cũ. Có biết bao nhiêu người nông dân đó sống nghèo khổ, cơ cực và cùng quẫn như lão Hạc. Xin cảm ơn nhà văn Nam Cao, ông đã giúp ta nhìn thấy vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách cao cả của họ, đem đến cho ta một niềm tin sâu sắc vào con người.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
Bảng tin