

Hãy luôn nhớ cảm ơn và vote 5*
nếu câu trả lời hữu ích nhé!
c1:
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ xâm lược, Đảng bộ, quân và dân Hưng Yên đã lập nhiều chiến công xuất sắc, góp phần xứng đáng vào thắng lợi chung của cả nước.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Hòa trong không khí đón mừng thắng lợi của cả nước, ngày 23-8-1945, Ủy ban Nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Hưng Yên ra mắt nhân dân, quản lý và điều hành công việc của tỉnh. Đến ngày 25-8-1945, chính quyền cách mạng được xác lập hoàn toàn trong phạm vi toàn tỉnh. “Cây muốn lặng mà gió chẳng dừng”, ngày 23-9-1945, thực dân Pháp lại gây hấn ở Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ hai. Cùng với cả nước, quân và dân Hưng Yên đã huy động toàn bộ sức người, sức của cho cuộc chiến tranh.
Nhận thấy Hưng Yên là một mảnh đất có vị trí quan trọng trong chiến tranh nên thực dân Pháp đã tìm mọi cách bình định, đánh chiếm Hưng Yên nhằm biến Hưng Yên thành chỗ dựa vững chắc, làm bàn đạp tấn công Hà Nội, Hải Phòng. Tính từ năm 1949 đến năm 1954, thực dân Pháp đã tiến hành hàng chục trận càn lớn nhỏ, tiêu biểu nhất là 5 trận càn Điabôlô (12-1949), Trái Chanh (9-1951), Lạc Đà (3-1952), Cá Măng (9-1953), Angiêri (1-1954) gây thiệt hại lớn về người và của cho Hưng Yên.
1. Trận càn Điabôlô (12-1949)
Ngày 22-12-1949, địch triển khai chiến dịch Điabôlô (Con quay). Đây là cuộc tiến công lớn nhất của địch từ trước đến nay trên địa bàn tỉnh ta. Chiến dịch được triển khai trong 10 ngày (từ ngày 22 đến ngày 31-12-1949) với một lực lượng lớn, gồm 2 binh đoàn thiện chiến nhất lúc đó (Communal và Beaufred). Một tàu chiến tăng cường (Dinaseau renforce) chở bộ binh và thủy quân lục chiến làm nhiệm vụ vu hồi chiến. Tổng cộng có khoảng 4.000 quân. Với chiến dịch này, địch đánh phá, càn quét địa bàn 10 huyện tự do phía nam 2 tỉnh Hưng Yên và Hải Dương, trong đó có 5 huyện của Hưng Yên là Khoái Châu, Ân Thi, Kim Động, Tiên Lữ, Phù Cừ và thị xã Hưng Yên.
Mục tiêu chính của chiến dịch này là chiến nốt vùng tự do phía nam tỉnh, cùng với các chiến dịch khác hoàn thành đánh chiếm toàn bộ đồng bằng Bắc Bộ, chiến kho người, kho của để thựuc hiện chiến lược “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt trị người Việt”.
Địch tiến công theo hai hướng chính (theo hướng đường 5 và hướng phía nam dùng quân thủy) với 13 mũi tiến công. Riêng địa bàn Hưng Yên, địch sử dụng 7 cánh quân từ 7 hướng.
Chỉ trong vòng có 3 ngày (từ 22 đến 24-12-1949), địch đã kiểm sóat được địa bàn chiến dịch, chiếm đóng 20 vị trí, mỗi vị trí một đại đội, khu vực thị xã có 2 tiểu đoàn ứng chiến, lập 15 vị trí vệ sĩ phản động, mỗi nơi đóng từ 1 đến 3 trung đội. Từ ngày 24-12-1949, địch chia quân, sử dụng cả quân cơ động và bọn phản động tại chỗ tiến hành càn quét tòan bộ địa bàn chiến dịch, chiếm đóng tiếp 10 vị trí ở các khu then chốt khác là Quang Xá (Phù Cừ), Phố Giác, Mai Xá, Đầu Đặng (Tiên Lữ), Kênh Khê, An Vĩ, An Lạc (Khoái Châu), Thổ Hoàng, Bảo Tàng, Đỗ Mỹ (Ân Thi)… Ngoài ra, địch lập tiếp vệ sĩ ở 9 nhà thờ Bầu, Đại Nại (Tiên Lữ), Vĩnh Phúc, Hoàng Xá, Hoàng Độc, Dũng Kim (Kim Động), Hạ Lễ, Đan Tràng, Lễ Xá (Ân Thi).
Đến ngày 31-12-1949, địch cơ bản đã hoàn thành xong mục tiêu, kết thúc chiến dịch Điabôlô, đóng lại 44 vị trí ở Hưng Yên và Hải Dương, trong đó Hưng Yên có 30 vị trí; lập vệ sĩ phản động ở 25 nhà thờ, ở Hưng Yên chiếm đến 24 nhà thờ.
Về phía ta, sau khi địch tấn công, hàng trăm làng chiến đấu được chuẩn bị từ trước, do bị bất ngờ nên hoàn toàn bị động và cơ bản không đối phó được với cuộc hành quân của địch. Tiêu biểu nhất cho sự phản công của ta trong chiến dich này đó là trận đánh của Tiểu đoàn 124 (Trung đoàn 42) tại Đồng Thiện (Tiên Lữ) tiêu diệt được trên 50 tên địch. Ngoài ra còn một số trận đánh du kích lẻ tẻ diễn ra trên địa bàn các huyện như Phùng Hưng, Đại Hưng, Liên Khê (Khoái Châu); Nguyễn Trãi, Hồ Tùng Mậu, Hồng Quang… (Ân Thi); Ngũ Lão, Chính Nghĩa, Thống Nhất (Kim Động)… Kết thúc trận càn, ta cũng đã loại khỏi vòng chiến đấu gần 400 tên địch, phá hủy 10 xe quân sự.
Trận càn Điabôlô đã gây một tâm lý hoang mang, dao động ở Hưng Yên vì ta bị bất ngờ cả về thời gian, tính chất, mục đích của địch. Sau trận càn này, các cơ quan, các ngành, các giới và nhân dân trong tỉnh đã phải sơ tán sang các tỉnh bạn, chờ thời cơ trở về quê hương.
c2:
Đất Hưng Yên vốn có vị trí đặc biệt trong sự nghiệp chống giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước:
Từ xa xưa cho đến nay quân và dân Hưng Yên luôn sát cánh cùng nhân dân cả nước:
- Mở đầu trang sử chống xâm lăng của nhân dân Hưng Yên là chiến công của 3 chàng trai làng Thổ Hoàng (Ân Thi), của Hoàng An ở làng Phả Lễ (Văn Lâm) đã cùng Phù Đổng Thiên Vương đánh đuổi giặc Ân ở đời Hùng Vương thứ 6.
- Trong hơn 1000 năm Bắc thuộc dân dân Hưng Yên luôn sẵng sàng chiến đấu hi sinh vì đất nước cùng toàn thể dân tộc Việt Nam
- Các tướng lĩnh Nguyệt Thai, Nguyệt Độ (Khoái Châu), Lã Văn Ất (Văn Giang), Hương Thảo (Ân Thi) cùng nhau tham gia trong cuộc khởi nghĩa 2 bà Trưng năm 40.
- Năm 938, Ngô Quyền đóng đại bản doanh tại phố Vương (Phố Giác, huyện Tiên Lữ) chuẩn bị cho trận thủy chiến trên sông Bạch Đằng nhằm đánh tan mưu đồ của nhà Hán, đã nhận được sự phối hợp tác chiến của tướng quân Phạm Bạch Hổ (Đằng Châu, nay thuộc thành phố Hưng Yên) và sự giúp đỡ của nhân dân các thôn Tiên Xá, Dị Chế (Tiên Lữ)…
- Trong 3 lần kháng chiến chống quân Nguyên - Mông (1258, 1285, 1288), vùng đất Hưng Yên trở thành hậu cứ quan trọng của vương triều Trần với nhiều tên tuổi các tướng lĩnh và địa danh lịch sử
- Trong phong trào cách mạng 1930 - 1945, nhiều người con Hưng Yên đã tự nguyện đi theo con đường cách mạng mà Đảng, Bác Hồ lựa chọn: Tô Hiệu (Nghĩa Trụ-Văn Giang), Nguyễn Văn Linh (Giai Phạm-Yên Mỹ), Bùi Thị Cúc (Vân Du-Ân Thi)…
- Trong cuộc kháng chiến chống Pháp (1946 - 1954), ý chí kiên cường, bất khuất của con người Hưng Yên lại được trỗi dậy cùng với nhân dân cả nước quyết giành nền độc lập cho Tổ quốc.
- Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975), nhân dân Hưng Yên luôn làm tròn nhiệm vụ của hậu phương đối với tiền tuyến, đã chi viện sức người, sức của cho chiến trường miền Nam.
c3:
Tình yêu dành cho quê hương, đất nước ở mỗi quốc gia, mỗi dân tộc trên thế giới hoàn toàn không giống nhau, song tựu chung lại sợi chỉ đỏ chủ nghĩa yêu nước là biểu hiện khát vọng và hành động luôn đặt lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân lên trên hết. Chủ nghĩa yêu nước của dân tộc Việt Nam được hình thành từ rất sớm, bắt nguồn từ những tình cảm rất đơn sơ, bình dị trong gia đình, làng xã và rộng hơn là tình yêu Tổ quốc. Với vị trí địa lý là đầu mối giao thông quốc tế quan trọng, có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, Việt Nam luôn là mục tiêu xâm lược của nhiều quốc gia. Trong tiến trình phát triển của dân tộc, nhân dân ta đã phải trải qua thời gian dài chống giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước. Lịch sử thời kỳ nào cũng sáng ngời những tấm gương kiên trung, bất khuất của chủ nghĩa anh hùng cách mạng: Từ Bà Triệu “Tôi chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá trường kình ở biển Đông, lấy lại giang sơn, dựng nền độc lập, cởi ách nô lệ, chứ đâu chịu khom lưng làm tì thiếp cho người!”; Trần Bình Trọng “Ta thà làm quỷ nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc”; Nguyễn Huệ “Đánh cho để dài tóc/Đánh cho để đen răng/Đánh cho nó chích luân bất phản/Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn/Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ”… đến Bế Văn Đàn lấy thân mình làm giá súng, Phan Đình Giót lấy thân mình lấp lỗ châu mai, Nguyễn Viết Xuân với tinh thần “Nhằm thẳng quân thù! Bắn!”… Chủ nghĩa yêu nước, ý chí độc lập và tự cường dân tộc đã trở thành “dòng chủ lưu của đời sống Việt Nam”, là nền tảng tinh thần to lớn, là giá trị đạo đức cao quý nhất trong thang bậc các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam, trở thành “tiêu điểm của các tiêu điểm, giá trị của các giá trị” và là nguồn sức mạnh vô địch để dân tộc ta vượt qua khó khăn, chiến thắng mọi kẻ thù, xứng đáng với lời ngợi ca của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”1.
2. Lòng yêu thương, độ lượng, sống có nghĩa tình với con người
Đây là giá trị đạo đức nhân văn sâu sắc được sinh dưỡng trong chính đau thương, mất mát qua các cuộc đấu tranh bảo vệ Tổ quốc và cuộc sống lam lũ hàng ngày từ nền sản xuất nông nghiệp trồng lúa nước của dân tộc Việt Nam. Điều dễ nhận thấy về biểu hiện lòng nhân ái của dân tộc ta được bắt nguồn từ một chữ “tình” - Trong gia đình đó là tình cảm đối với đấng sinh thành “Công cha như núi Thái Sơn/Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”, tình anh em “như thể tay chân”, tình nghĩa vợ chồng “đầu gối, tay ấp”; rộng hơn là tình làng xóm láng giềng và bao trùm hơn cả là tình yêu thương đồng loại “Nhiễu điều phủ lấy giá gương/Người trong một nước phải thương nhau cùng”… Lòng yêu thương và sống có nghĩa tình còn được biểu hiện trong sự tương trợ, giúp đỡ nhau; sự khoan dung, vị tha dành cho cả những người đã từng lầm đường lạc lối biết lấy công chuộc tội. Không chỉ biểu hiện trong đời sống hàng ngày, tình yêu thương, sự khoan dung, độ lượng với con người của dân tộc Việt Nam còn được nâng lên thành những chuẩn tắc trong các bộ luật của Nhà nước; đồng thời là cơ sở của tinh thần yêu chuộng hoà bình và tình hữu nghị với các dân tộc trên thế giới. Trong lịch sử, nhân dân ta luôn đề cao và coi trọng việc giữ tình hoà hiếu với các nước, tận dụng mọi cơ hội có thể để giải quyết hoà bình các xung đột, cho dù nguyên nhân từ phía kẻ thù ... Ngày nay, truyền thống nhân nghĩa đó không bị mai một hay mất đi, ngược lại tiếp tục được khẳng định và củng cố khi Đảng, Nhà nước và nhân dân ta thực hiện đường lối nhất quán “Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”. Ý thức đầu tiên về sự cố kết cộng đồng của người Việt Nam đã được dân gian thần thánh hóa bằng thiên truyền thuyết đẹp với hình ảnh “bọc trăm trứng” để lý giải cùng chung nguồn cội con cháu Rồng Tiên - Truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ. Trải qua thực tiễn trong cuộc sống lao động cũng như chiến đấu, tinh thần đoàn kết dân tộc bền chặt càng được đề cao và đã trở thành một triết lý nhân sinh sâu sắc “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết/Thành công, thành công, đại thành công”. Trong 86 năm qua kể từ khi có Đảng lãnh đạo, thực tiễn cách mạng Việt Nam thêm một lần nữa đã thể hiện sức sống kỳ diệu và chứng minh chân lý đúng đắn về sức mạnh vĩ đại của tinh thần đại đoàn kết dân tộc. Sức mạnh đó chính là mạch nguồn của các thắng lợi trong Cách mạng Tháng Tám (1945), kháng chiến chống Pháp (1946 - 1954) và chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975)... Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, tinh thần đoàn kết dân tộc càng có ý nghĩa hơn đối với sự nghiệp đổi mới đất nước, do đó tư tưởng chỉ đạo chiến lược xuyên suốt của cách mạng Việt Nam luôn được Đảng ta nhấn mạnh “Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế… phát huy cao độ nội lực, đồng thời phải tranh thủ ngoại lực, kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại”2. Như vậy, biểu hiện về tinh thần đại đoàn kết cộng đồng đã trở thành một truyền thống tốt đẹp, có giá trị lý luận và thực tiễn cách mạng sâu sắc. Phát huy đại đoàn kết dân tộc là đoàn kết rộng rãi và lâu dài, đó là cội nguồn sức mạnh của dân tộc Việt Nam - “Một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của nhân dân ta”.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
Câu 1:
- Sau khi tỉnh Hưng Yên được thành lập (1831), dưới thời Nguyễn, Nhân dân Hưng Yên hăng hái tham gia các cuộc đấu tranh chống phong kiến thực dân của Phan Bá Vành, Cao Bá Quát (1854), Lê Duy Cự (1854) và Cai Vàng (1862).
Câu 2:
Trong chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, địa bàn tỉnh Hưng Yên được xác định là tuyến phòng thủ phòng không vòng ngoài Đông Nam của Thủ đô Hà Nội, là khu vực tác chiến chủ yếu của không quân ta; đồng thời Hưng Yên được Trung ương chọn là nơi sơ tán của nhiều cơ quan, đơn vị, bệnh viện, trường học của Thủ đô Hà Nội.
Câu 3:
- Lịch sử hàng nghìn năm dựng nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, dân tộc Việt Nam đã viết lên những trang sử hào hùng. Trong tiến trình lịch sử của dân tộc đã tạo nên nhân cách con người Việt Nam với các giá trị đạo đức vô cùng phong phú. Cùng với thời gian, các giá trị đạo đức này được lưu truyền qua các thế hệ, trở thành truyền thống tốt đẹp, là sức mạnh và động lực của dân tộc. Hòa cùng với dòng chảy lịch sử dân tộc, vùng quê hưng thịnh và yên bình với tên gọi “Hưng Yên” đã chứa đựng cả bề dày và sự phong phú, độc đáo của vùng văn hóa sông Hồng, đồng thời phát huy được các giá trị văn hóa mang bản sắc dân tộc. Những thế hệ con người Hưng Yên đã mang trong mình dòng máu của người Việt Nam với đầy đủ các giá trị đạo đức truyền thống: Yêu quê hương, đất nước; đoàn kết, anh dũng trong cải tạo thiên nhiên và chống giặc ngoại xâm; cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất; ham học hỏi và giàu lòng nhân nghĩa, thủy chung...
CHÚC BẠN CÓ BUỔI HỌC VUI VẺ
#khanhhuyen
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
Bảng tin