

Hãy luôn nhớ cảm ơn và vote 5*
nếu câu trả lời hữu ích nhé!
Đáp án:
Giải thích các bước giải:
Nhật kí trong tù là tập nhật kí bằng thơ do Hồ Chí Minh viết ròng rã hơn một năm trời trong các nhà tù của chính quyền Tưởng Giới Thạch ở tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Trước hết, đây là tập thơ Bác viết cho chính mình, với mục đích: Ngày dài ngâm ngợi cho khuây, Vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do mà Bác đã viết ở bài Khai quyển đầu cuốn sổ tay. Vì thế mà Bác ghi lại vắn tắt những điều tai nghe mắt thấy làm cho mình trăn trở, suy nghĩ và xúc cảm trong suốt mười bốn tháng bị giam cầm. Lai Tân là bài thơ thứ 97, Bác làm sau khi bị chuyển lao từ Thiên Giang đến Lai Tân. Đằng sau bức tranh tả thực có vẻ như rất khách quan là thái độ mỉa mai, châm biếm và phê phán của người tù Hồ Chí Minh đối với giai cấp thống trị ở Lai Tân nói riêng và chế độ xã hội Trung Quốc đương thời nói chung.
Phiên âm chữ Hán:
Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc,
Giải người, cảnh trưởng kiếm ăn quanh.
Chong đèn, huyện trưởng làm công việc,
Trời đất Lai Tân vẫn thái bình.
Bức tranh về hiện thực ở nhà tù Lai Tân và một phần xã hội Trung Quốc thu nhỏ đã được Hồ Chí Minh phản ánh sinh động trong bài thơ thất ngôn tứ tuyệt ngắn gọn mà ý nghĩa vô cùng hàm súc. Thành công của bài thơ là nghệ thuật châm biếm sắc sảo, độc đáo kết hợp với giọng điệu tự sự xen lẫn trữ tình và một kết cấu chặt chẽ, hợp lý.
Kết cấu bài thơ gồm hai phần nhưng khác với cấu trúc thông thường của tứ tuyệt Đường luật ở chỗ: phần thứ nhất gồm ba câu, còn phần thứ hai chỉ có một câu. Ba câu thơ đầu chỉ đơn thuần kể việc. Điểm nút chính là câu thứ tư bởi nó làm bật ra toàn bộ tư tưởng của bài thơ và làm bung vỡ tất cả cái ý châm biếm mỉa mai của người tù Hồ Chí Minh trước sự thối nát đến tận xương tủy của đám quan chức trong giai cấp thống trị.
Ở phần thứ nhất, Hồ Chí Minh đã phác họa thần tình chân dung của ba nhân vật “quan trọng”. Ban trưởng nhà lao công khai đánh bạc ngày này qua ngày khác, trong khi: Đánh bạc bên ngoài quan bắt tội. Cảnh trưởng thì trắng trợn ăn tiền đút lót của tù nhân, còn huyện trưởng thì đêm đêm chong đèn… hút thuốc phiện. Chính những kẻ đại diện cho chính quyền, cho luật pháp lại ngang nhiên vi phạm pháp luật. Điều trái ngược ấy đã vượt ra khỏi khung cảnh của một nhà tù, trở thành tính chất tiêu biểu cho cả xã hội Trung Hoa thời ấy: Quan trên trì trệ, vô trách nhiệm, hưởng lạc; cấp dưới thì chỉ lo xoay xở kiếm ăn quanh, mặc cho mọi tệ nạn cứ tự do hoành hành. Hơn thế, điều đáng mỉa mai là chính bọn quan lại tham lam, nhũng nhiễu ấy đã “tích cực” góp phần làm gia tăng tệ nạn xã hội. Ba nhân vật đang hoạt động như trong một màn hài kịch câm và cả ba đang thủ vai một cách hết sức “nghiêm túc” giữa khung cảnh thái bình (?!) dưới sự thống trị của họ Tưởng. Câu thơ miêu tả ngắn gọn mà lại hàm ý mỉa mai sâu sắc, tố cáo tình trạng lộn xộn, bát nháo của xã hội Trung Quốc lúc đó.
Phần thứ hai (câu cuối cùng) là nhận xét có tính chất trào lộng thâm thúy của người tù Hồ Chí Minh về tình trạng của bộ máy cai trị ở Lai Tân. Người đọc chờ đợi gì ở câu kết luận này ? Chắc hẳn phải là một sự lên án quyết liệt. Nhưng tác giả đã không làm như thế mà lại hạ một câu có vẻ rất khách quan: Trời đất Lai Tân vẫn thái bình. Đòn đả kích bất ngờ mà sâu cay lại nằm ngay trong câu nhận xét tưởng như là ca ngợi ấy.
Hiệu quả đả kích của câu thơ như thế nào? Hoá ra tình trạng thối nát của bọn quan lại ở Lai Tân không phải là chuyện bất thường mà là chuyện bình thường. Bình thường đến nỗi đã trở thành bản chất, thậm chí đã thành “nề nếp” được chấp nhận từ lâu.
Câu kết tưởng chừng có vẻ hết sức “vô tư” kia ai ngờ lại ẩn giấu một tiếng cười mỉa mai, châm biếm, lật tẩy bản chất xấu xa của bộ máy thống trị ở Lai Tân. Tính từ thái bình có thể xem là “thần tự”, “nhãn tự" của bài thơ. Nhà thơ Hoàng Trung Thông đã có một lời bình thật chính xác và thú vị: “Một chữ thái bình mà xâu táo lại bao nhiêu việc làm trên vốn là muôn thuở của giai cấp bóc lột thống trị Trung Quốc. Chỉ một chữ ấy mà xé toang tất cả sự thái bình dối trá nhưng thực sự là đại loạn bên trong”.
Bài thơ Lai Tân in đậm bút pháp nghệ thuật chấm phá truyền thống của thơ Đường. Lời thơ ngắn gọn, súc tích, không cầu kì câu chữ, nhưng chỉ với bốn câu thơ ngắn, người tù Hồ Chí Minh đã phơi bày bản chất của cả chế độ Tưởng Giới Thạch suy thoái, mục nát. Sức chiến đấu, chất “thép” của bài thơ nhẹ nhàng mà thâm thúy chính là ở đó.
giúp 5 sao nka
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
Đáp án:Phân tích bài thơ Hội Tây
Nguyễn Khuyến là một nhà thơ nôm suất sắc, nhà thơ của làng cảnh Việt Nam. Với lối viết thơ văn sáng tạo, ngôn ngữ giàu màu sắc, giọng thơ gợi cảm xúc với thiên nhiên, con người và quê hương. Trong thơ nôm ông là nhà thơ trào phúng vừa là nhà thơ trữ tình nhuộm đậm tư tưởng Lão Trang và triết lý Đông Phương. Sống trong thời kỳ nước mất nhà tan, triều đại nhà Nguyễn đang ở giai đoạn lụi tàn. Con người Việt Nam bị chà đạp, đói rét lầm than. Ông còn là một nhà thơ thấu hiểu với những nỗi đau của nhân dân, ông buồn vì sự nghèo đói của họ, cảm thấy day rứt của một người ưu thời mẫn thế. Ngôn ngữ trào phúng của Nguyễn Khuyến nhẹ nhàng hỏm hỉnh, nhiều cung bậc. Bài thơ “hội Tây” của Nguyễn Khuyến là một tác phẩm nổi tiếng trong văn học Việt Nam, với ngôn ngữ hài hước, nhẹ nhàng nhưng là lời mỉa mai, châm biếm sâu cay phê phán xã hội thực dân phong kiến thời kỳ đó:
"Kìa hội thăng bình tiếng pháo reo,
Bao nhiêu cờ kéo với đèn treo.
Bà quan tênh nghếch xem bơi trải,
Thằng bé lom khom nghé hát chèo,
Cậy sức cây đu nhiều chị nhún,
Tham tiền cột mỡ lắm anh leo.
Khen ai khéo vẽ trò vui thế,
Vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu !"
Hiện thực xã hội xấu xa cần phải vạch trần không chỉ ở lũ quan lại mà cả ở cả hiện tượng lố lăng trong thời buổi giao thời. Mở đầu tác phẩm là khung cảnh nhộn nhịp, náo nhiệt của ngày hội lớn của người Pháp:
“Kìa hội thăng bình tiếng pháo reo,
Bao nhiêu cờ kéo với đèn treo”
Đây là một ngày hội lớn của bọn thực dân Pháp ngay trên đất Việt. Thật nhố nhăng khi đất nước đang bị bọn thực dân chiếm đóng, thực dân Pháp đã bày ra những trò chơi để mị dân. Trong hoàn cảnh như thế, lễ hội vẫn diễn ra với âm thanh rộn rã của tiếng pháo reo, với màu sắc lấp lánh của cờ kéo, đèn treo. Ngay cả con người cũng hòa chung nhịp vui ấy, thật lại một hiện thực không thể chấp nhận được:
“Bà quan tênh nghếch xem bơi trải,
Thằng bé lom khom nghé hát chèo,
Cậy sức cây đu nhiều chị nhún,
Tham tiền cột mỡ lắm anh leo”
Nguyễn Khuyến đã khéo léo đưa vào những hình ảnh đậm sắc thái của lễ hội như bơi trải, hát chèo,... Khiến cho người đọc dễ dàng tưởng tượng được không khí vui tươi, náo nhiệt của ngày hội. Thế nhưng chính giọng điệu hóm hỉnh ấy đã nói lên thực trạng đen tối của xã hội, lên án những hành động của bọn thống trị. Bà quan thật nực cười trong cái “tênh nghếch” trái ngược với dáng vẻ “lom khom” của thằng bé. Hai từ “tênh nghếch” đối lập với “lom khom”, một bên là bà quan với uy cao quyền lớn, một bên là cậu bé đáng thương. Qua đó thấy được thực tại xót xa của đất nước trong nô lệ, sống dưới gót giày của lũ thực dân xâm lược. Càng xót xa hơn nữa, khi chính những con người bị chà đạp ấy lại không nhận thức được nỗi nhục mất nước mà còn bị chúng cuốn vào những trò chơi nhố nhăng, mụ mị làm ngu dân của bọn thực dân Pháp. Cụ thể lý do tham gia trò chơi của mọi người là cậy sức đối với tham tiền, cây đu đối với cột mỡ, nhiều đối với lam, chị đối với anh, nhím đối với leo. Một trò chơi hết sức nực cười, thể hiện thái độ phê phán châm biếm sâu cay qua những lời thơ tưởng chừng như rất hài hước hóm hỉnh ấy
“Khen ai khéo vẽ trò vui thế,
Vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu !”
Nhà thơ như đang đứng từ xa, cảm nhận rõ sự lố bịch của trò chơi. Các trò chơi trong ngày hội không có gì là vui vẻ cả, vì đó chính là nơi bọn thực dân Pháp bày ra để mị dân. Biện pháp chơi chữ được sử dụng khéo léo trong hai câu thơ trên nhấn mạnh ý chê cười khinh bỉ trò chơi. Nguyễn Khuyến nhận ra nỗi nhục của cảnh nô lệ, nỗi nhục mất nước. Từ đó cảnh tỉnh cho người dân Việt Nam đang bị chúng làm cho mờ mắt. Có lẽ ta chưa gặp bài thơ nào mà thái độ châm biếm của Nguyễn Khuyến lại được thể hiện trực tiếp như vậy. Trần Tế Xương cũng đã từng vạch trần bộ mặt xấu xa của xã hội đặc biệt là bọn quan lại trong bài “năm mới chúc nhau”.Sau mỗi lần câu chúc được viết ra là một lần Trần Tế Xương thể hiện thái độ khinh bỉ, ghen ghét, mỉa mai bọn người đáng ghét ấy. Thế nhưng nếu nhà thơ Tế Xương mang đến cho người đọc những câu thơ trào phúng cay độc, chửi thẳng vào bộ mặt xã hội thì Nguyễn Khuyến lại mang đến một hồn thơ nhẹ nhàng, hóm hỉnh mà thâm túy sâu cay.
Qua những trang thơ trên, Nguyễn Khuyến đã mang đến cho người đọc tiếng cười của một bậc bề trên, ông luôn ý thức được cái hơn hẳn người đời về tài, đức. Giọng thơ Nguyễn Khuyến nhẹ nhàng hóm hỉnh nhưng lại rất thâm túy chua cay. Giọng cười ấy chỉ để che giấu đi nỗi đau, sự bất lực trước thời thế. “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho”. Mặc dù chứng kiến xã hội lố lăng, đen tối ấy thế nhưng Nguyễn Khuyến vẫn chọn viết thơ trào phúng để thể hiện thái độ của mình trước cuộc đời.
Qua những dòng thơ trong bài “hội Tây”, Nguyễn Khuyến đã mang đến một tiếng cười đau đớn trước xã hội. Qua đó tác giả lên án xã hội thực dân phong kiến, thức tỉnh những người dân đang bị bọn thực dân Pháp làm cho mụ mị. Mạnh mẽ lên án tố cáo thực trạng xã hội, mang đến những bài học sâu sắc cho mọi người.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
Bảng tin
0
19
0
Bài hội tây mà og nội
52
943
37
nhầm qua phân tích r
0
19
0
ông ghi bài lai tân mà
0
19
0
nhâm qua phân tích bài lai tân à
52
943
37
bài hay đoạn
0
19
0
bài og ê
52
943
37
chịu r chỉ viết đc đoạn
0
19
0
thế thôi