

Hãy luôn nhớ cảm ơn và vote 5*
nếu câu trả lời hữu ích nhé!
Đáp án:
MỞ BÀI
Nguyễn Khuyến là một nhà thơ cổ điển lớn của dân tộc ta. Sáng tác của Nguyễn Khuyến diễn ra trên nhiều đề tài với những nội dung cảm xúc phong phú. Trong đó có một đề tài nổi bật là miêu tả cảnh sắc thiên nhiên làng quê, sinh hoạt của con người thôn quê. Từ nhiều bài thơ cúa Nguyễn Khuyến hiện lên hình ảnh những làng quê đồng bằng Bắc Bộ yên ả, thơ mộng mà ông từng thiết tha gắn bó. Xuân Diệu đã nhận xét rằng “Nguyễn Khuyến là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam”. Chùm ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến đã chứng tỏ sinh động cho nhận xét này. Và đặc biệt hơn cả là bài thơ “Thu ẩm”.
THÂN BÀI
Thu ẩm (Uống rượu mùa thu)
Đây là mùa thu được cảm nhận bằng tâm trạng của một người ngồi uống rượu. Lúc này, cảnh thu sẽ mang các ấn tượng nỗi niềm riêng – dường như cũng chập chờn, mờ toả. Có lẽ vì thế mà bài thơ có nhiều từ lấp láy và dùng vần “oe”.
Thu ẩm không miêu tả riêng một cảnh thu ở một thời điểm nào mà là sự “tổng hợp nhiều cảnh thu ở nhiều thời điểm” (Xuân Diệu). Bài thơ cũng không hề có một chữ “thu” (khác với “trời thu” ở Thu vịnh và “ao thu” ở Thu điếu). Vậy mà đọc lên ta nhận ra chính xác cảnh sắc thu quen thuộc của làng quê Việt Nam. Đây là một mái nhà tranh bình dị trong ngõ tối vào đêm sâu lập loè những con đom đóm:
Năm gian nhà cỏ thấp le te.
Ngõ tối đèm sâu đóm lập loè.
Phải là “ngõ tối”, “đêm sâu” thì mới có thể thấy “đóm lập loè”; ngược lại, cái lập loè của con đom đóm ấy lại càng khiến cho ngõ tối bỗng tối hơn, đêm sâu thành sâu hơn… Đây là cảnh của buổi sáng sớm (hay buổi chiều) với khói nhạt phất phơ nơi lưng giậu. Rồi lại cảnh đêm trăng với mặt ao lóng lánh:
Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt
Làn áo lóng lánh, bóng trăng loe.
Lại một một bầu trời trong suốt ở buổi ban trưa hay ban chiều với màu xanh thăm thẳm:
Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt.
Bài thơ tạo trong ta ấn tượng “phi thời gian” nhưng cũng gợi rất sâu vào không khí tĩnh mịch, trong lành vô cùng thân thuộc của thôn quê Việt Nam.
Rượu, hoa, trăng… là những thú tiêu khiển thanh cao của các tao nhân mác khách xưa nay. Bài thơ “Nâng chén, hỏi trăng” của Lý Bạch rất được nhiều người yêu thích:
Người nay chẳng thấy trăng thời trước
Người trước, trăng nay soi đã từng
Người trước, người nay như nước chảy
Cùng xem trăng sáng đều thế đấy
Chỉ ước vui ca thưởng chén quỳnh
Be vàng, trăng sáng vào rọi mãi.
(Tương Như dịch)
Tam Nguyên Yên Đổ cũng có nhiều câu thơ rất đậm đà ý vị nói về rượu:
Khi vui chén rượu say không biết
Ngửa mặt lờ mờ ngọn núi xa.
(Cáo quan về ở nhà)
Em cũng chẳng no mà chẳng đói,
Thung thăng chiếc lá, rượu lưng bầu.
(Lụt, hỏi thăm bạn)
Rượu ngon không có bạn hiền,
Không mua không phải không tiền không mua…
Và còn có “Thu ẩm” – mùa thu uống rượu. Hình ảnh trung tâm của bài thơ là “Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe”. Câu thơ đã diễn tả trạng thái ngà ngà say… đến “say nhè”: “Rượu tiếng rằng hay hay chả mấy – Độ năm ba chén đã say nhè”. “Say nhè” là say êm, say nhẹ, say rồi ngủ quên đi lúc nào chẳng biết. Chẳng phải là say bét nhè, bê tha. Nguyễn Khuyến rất thanh cao, chỉ có “năm ba chén” nhỏ, đúng là cái thú “Khi vui chén rượu say không biết” hoặc “Khi hứng uống thêm năm chén rượu – Khi buồn ngâm láo một câu thơ” (Đại lão)
Trong sáu câu thơ đầu thì đã có đến năm câu đều có màu sắc thể hiện một cái nhìn đếm thu lúc ngồi uống rượu một mình. Có màu đen thẫm mịt mùng của đêm sâu “ngõ tối”. Có ánh sáng “lập loè” của bầy đom đóm. Có sắc trắng nhờ của “màu khói nhạt” nhẹ bay “phất phơ” trên lưng giậu cúc tần trước sân của năm gian nhà cỏ bình dị. Có màu vàng của bóng trăng loe tan ra “lóng lánh” trên làn ao “sóng biếc theo làn hơi gợn tí” trong veo. Có da trời màu “xanh ngắt” rất đẹp. Và sắc “đỏ hoe” của đôi mắt ông lão, của thi nhân đang uống rượu âm thầm.
Cảnh vật có đường nét cao, thấp, xa, gần, mỏng và nhẹ. Độ “thấp le te” của ngôi nhà cỏ năm gian. Độ sâu của đêm khuya và “ngõ tối” nơi làng quê vùng đồng chiêm trũng. Độ nhẹ vờn bay “phất phơ” của màu khói nhạt. Chiều đo “thấp” của “lưng giậu”, nét gợi của “làn ao”, vòng tròn của “bóng trăng loe” trên mặt “ao thu lạnh lẽo”, độ xa, cao, rộng của bầu trời, chân trời, độ hõm của đôi mắt “đỏ hoe” đã “say nhè”.
Màu sắc ấy, đường nét ấy qua cái nhìn chập chờn, tỉnh say say tỉnh của nhà thơ. Màu sắc đường nét ấy là màu sắc của tâm tưởng, là đường nét của tâm trạng. Còn đâu nữa, chén rượu tri âm của đôi bạn “đăng khoa ngày trước?”.
Cũng có lúc rượu ngon cùng nhắp
Chén quỳnh tương ăm ắp bầu xuân?
Nay nhà thơ chỉ còn uống rượu trong đêm sâu, âm thầm, lặng lẽ và cô đơn. Cao Bá Quát nửa đầu thế kỷ XIX chỉ uống rượu “tiêu sầu”. Còn Nguyễn Khuyến “đêm thu nay’’ uống rượu cho vơi đi nỗi buồn thế sự “Rằng quan nhà Nguyễn nhà Nguyễn cáo về đã lâu” uống rượu để thao thức, thao thức nên uống rượu để vơi đi nỗi đau cuộc đời: “Có phải tiếc xuân mà đứng gọi – Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ (Cuốc kêu cảm hứng). Vợ chết, con mất, bạn chí thân qua đời, tuổi già, ốm đau, Nguyễn Khuyến mượn “năm ba chén rượu” để vợi đi ít nhiều nỗi buồn cô đơn:
Đời loạn đi về như hạc độc,
Tuổi già hình bóng tựa mây côi.
(Gửi bạn)
Hình như chén rượu của nhà thơ đã tràn đầy nước mắt? Hai câu kết ý tại ngôn ngoại. Thấm một nỗi buồn mênh mông. Người đọc vô cùng xúc động khi thấy nhà thơ “say nhè” nằm ngủ:
Rượu tiếng rằng hay hay chả mấy,
Độ năm ba chén đã say nhè.
Cả bài thơ, ngoài đầu đề “Thu ẩm” ra, chẳng có một chữ thu nào nữa, thế mà câu thơ nào cũng chứa đựng một tình thu, và hồn thu man mác, dào dạt. Đó là chất thi vị độc đáo của bài thơ này. Các từ láy: le te, lập loè, phất phơ, lóng lánh… với các từ “rượu”, “chén”, “say nhè” – cho thấy nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Khuyến vô cùng tinh luyện, hình tượng và biểu cảm.
Trước Nguyễn Khuyến gần 500 năm, Nguyễn Trãi có câu thơ:
Sách một hai phiên làm bầu bạn
Rượu năm ba chén đổi công danh.
(Tự thán – 10)
Sau khi Nguyễn Khuyến mất gần nửa thế kỉ, nhà thơ Hồ Chí Minh cũng có câu thơ nói về rượu: “Du kích quy lai tửu vị tàn”. (Thu dạ, 1948)
Đó là những chén rượu một thời, cũng là những chén rượu một đời. Chén rượu của các thi nhân – chén rượu thanh cao và sang trọng.
KẾT BÀI
Đến với chùm ba bài thơ thu của Nguyền Khuyến, ta bắt gặp những cảnh sắc không thể lẫn của mùa thu vùng nông thôn đồng bằng Bắc Bộ.
Những bức tranh thu ấy được vẽ nên bằng tấm lòng yêu mến quê hương mình, bằng tình yêu cuộc sống thanh cao, tĩnh lặng chốn thôn quê của cụ Tam nguyên Yên Đổ.
Thành công của những bài thơ thu này cũng chứng tỏ tâm hồn tinh tế, ngòi bút tài hoa của Nguyễn Khuyến. Chúng đưa ông lên địa vị danh dự trong các thi nhân viết về mùa thu, trong những nhà thơ của làng cảnh Việt Nam.
SAI MONG BN THÔNG CẢM
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
Bảng tin