

Hãy luôn nhớ cảm ơn và vote 5*
nếu câu trả lời hữu ích nhé!
Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Cho đến nay, "Truyện Kiều" của ông vẫn được coi là tác phẩm thơ Nôm kiệt xuất của nền văn học dân tộc. Trong đó, Nguyễn Du thể hiện tài năng bậc thầy ở nhiều phương diện, đặc biệt là nghệ thuật xây dựng nhân vật. Hầu hết các chân dung đều được miêu tả sinh động, có sức sống. Có thể thấy rõ điều này chỉ qua đoạn trích " Chị em Thúy Kiều".
Trong bốn câu thơ đầu, nhà thơ không tả mà giới thiệu chung về vị trí thứ bậc và vẻ đẹp toàn diện của hai nàng:
" Đầu lòng hai ả tố nga
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân
Mai cốt cách tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười"
" Ả" là cách gọi của người dân xứ Nghệ với các chị, các cô. Còn " tố nga" là ước lệ chỉ vẻ đẹp thiếu nữ thanh tân, rạng rỡ. Bên cạnh ước lệ "tố nga" là hình ảnh ẩn dụ tượng trưng "mai cốt cách", "tuyết tinh thần" gợi vóc dáng mảnh dẻ, cốt cách thanh cao như mai. " Tuyết tinh thần" là tâm hồn trong sạch, trắng trong như tuyết. Nguyễn Du cũng đã giới thiệu được vị trí, thứ bậc, trong đó chị là Thúy Kiều, em là Thúy Vân cùng nhan sắc và phẩm giá " Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười"
Đi vào miêu tả chi tiết hai bức chân dung của nàng Kiều, Vân. Nguyễn Du đã tả chân dung của Thúy Vân trước:
" Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da"
" Trang trọng"là tính từ Hán- Việt chỉ vẻ đẹp của phong thái; "đoan trang" gợi ra vẻ đẹp của phẩm cách, lối sống. Thúy vân có phong thái sang trọng, quý phái, phẩm cách hiền thục,mẫu mực, đứng đắn- đây là nét đẹp thường thấy của con nhà gia giáo, nề nếp.Khuôn mặt Thúy Vân tròn trịa, đầy đặn, sáng đẹp tựa trăng rằm. Nét mày thanh tú, cong mềm, óng ả. Miệng cười xinh, rạng rỡ như hoa.Giọng nói trong, lời nói đẹp như châu, như ngọc.Tóc mềm mượt như mây. Da trắng trẻo, mịn màng hơn tuyết...
Với Thúy Vân,người đọc chung cảm nhận về một nhan sắc hiền hòa, phúc hậu. Tuy ít ai sánh được nhưng sắc đẹp của nàng vẫn trong vòng trời đất, êm đềm, hòa hợp với tự nhiên:
" Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da"
Trước nhan sắc Thúy Vân, thiên nhiên " thua","nhường"- kém cạnh mà không xung khắc. Vẻ đẹp ấy phải chăng dự báo một cuộc đời suôn sẻ, bình lặng, không bão tố? Nghệ thuật ước lệ, tượng trưng, nhân hóa được tác giả sử dụng rất đắt. Góp phần sinh động, chân thực cho bức chân dung Thúy Vân
Vẻ đẹp của Thúy Kiều được Nguyễn Du miêu tả sau với một dụng ý nghệ thuật đầy độc đáo:
"Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn"
Như vậy,miêu tả Thúy Vân trước, vẻ đẹp trong sáng, dịu dàng của nàng lại được tác giả dùng làn nền để tôn nên vẻ đẹp mặn mà, sắc sảo, có "phần hơn" của nàng Kiều. Đặc biệt hơn nữa, Kiều không chỉ đẹp mà còn là một giai nhân đầy tài năng xuất chúng.
"Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh"
Dùng những hình ảnh của thiên nhiên cùng nghệ thuật ước lệ, nét vẽ của thi nhân vừa gợi tạo sự ấn tượng chung về vẻ đẹp của một giai nhân tuyệt thế. Khi khắc họa vẻ đẹp của Kiều,nhà văn nhấn vào đôi mắt vì đôi mắt vừa là vẻ đẹp ngoại hình,vừa thể hiện sự tinh anh của tâm hồn và trí tuệ. Nếu như vẻ đẹp của Thúy Vân được thiên nhiên " thua","nhường" thì với sắc đẹp tuyệt thế của Thúy Kiều, thiên nhiên đã phải "ghen", "hờn". Với cách miêu tả này, Nguyễn Du đã dự báo cho người đọc về tương lai đầy chông gai, bất trắc của nàng Kiều sau này.
Thúy Kiều còn là giai nhân "tài sắc toàn tài". Nàng không chỉ mang vẻ đẹp xuất chúng về ngoại hình, trí tuệ mà còn là một con người tài năng, rất mực tài hoa: "Sắc đành đòi một tài đành họa hai":
"Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương"
Thúy Kiều tinh thông cả: cầm, kì, thi, họa. Trong đó,vượt trội hơn cả là tài đàn. Tài của Kiều đạt đến mức độ lí tưởng theo quan niệm thẩm mĩ của xã hội phong kiến đương thời. Chỉ bốn câu thơ thôi nhưng Nguyễn Du đã gợi ra được sự xuất sắc,tài hoa của nàng Kiều." Cung đàn bạc mệnh"của Thúy Kiều sáng tác- đó chính là ghi lại tiếng lòng của một trái tim đa sầu,đa cảm.Vẻ đẹp của Kiều là sự kết hợp hài hòa của cả sắc- tài-tình. Bốn câu thơ cuối là sự nhận xét của Nguyễn Du về cuộc sống "Êm đềm chướng rủ màn che" của hai chị em. Đó là cuộc sống phong lưu rất mực, dù đã đến tuổi " cập kê"- tức tuổi búi tóc, cài tram nhưng vẫn sống trong sự che chở của gia đình.
Bằng nghệ thuật tả người đặc sắc,biện pháp ước lệ tượng trưng và sử dụng ngôn ngữ dân tộc tài tình, Nguyễn Du trong đoạn trích đã khắc họa sống động chân dung hai chị em Kiều mỗi người một vẻ tạo nên bức tranh vừa hài hòa vừa tương phản.
CHUC BAN HOC TOT NHA
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
Nguyễn Du là một thiên tài văn học và ông được coi là Đại thi hào văn hóa của Việt Nam. Cả cuộc đời cầm bút, ông đã để lại rất nhiều những tác phẩm có giá trị, trong đó tiêu biểu có “Đoạn trường tân thanh” mà người Việt quen gọi nôm là “Truyện Kiều”. Trong chương trình Ngữ văn 9, tập 1, có đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” trích “Truyện Kiều”, là một trong những đoạn trích hay, độc đáo, thể hiện tài năng nghệ thuật miêu tả, khắc họa chân dung con người của Nguyễn Du, góp phần làm nên thành công của tác phẩm.Đoạn trích nằm ở phần mở đầu của tác phẩm, giới thiệu gia cảnh của Kiều. Khi giới thiệu những người trong gia đình Kiều, tác giả tập trung tả tài sắc của Thúy Vân và Thúy Kiều.Trước hết, bốn câu thơ mở đầu là lời giới thiệu khái quát về hai chị em Kiều – Vân:“Đầu lòng hai ả tố nga,Thúy Kiều là chị em là Thúy VânMai cốt cách tuyết tinh thần,Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp ước lệ, ẩn dụ để giới thiệu khái quát về hai chị em qua rất nhiều bình diện như: lai lịch, vị trí trong gia đình và vẻ đẹp (riêng – chung) của hai chị em. Họ là hai người con gái đầu lòng của gia đình họ Vương, trong đó Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân. Tuy hai chị em có những vẻ đẹp khác nhau nhưng chị em Kiều đều mang chung vẻ đẹp duyên dáng, thanh cao, trong trắng: ngoại hình thì thanh tao như cây mai; phong thái tinh thần thì trong trắng như tuyết (tâm hồn). Đó là vẻ đẹp hoàn mĩ, toàn diện từ trong ra ngoài, từ dáng vẻ tới tâm hồn “mười phân vẹn mười”. Như vậy, chỉ bằng bốn câu thơ đầu ngắn gọn, tác giả đã khái quát được những thông tin cần thiết của nhân vật, đồng thời làm nổi bật lên vẻ đẹp riêng – chung của hai chị em. Từ đó, định hướng cảm xúc cho toàn bài, giúp người đọc thấy được cảm hứng ngợi ca con người trong đoạn thơ.Đến bốn câu thơ tiếp, Nguyễn Du phóng bút đi vào những nét vẽ cụ thể về chân dung và vẻ đẹp nhân vật Thúy Vân:Vân xem trang trọng khác vờiKhuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nangHoa cười ngọc thốt đoan trangMây thua nước tóc tuyết nhường màu da.Ngay câu thơ đầu, nhà thơ đã khái quát vẻ đẹp phong thái của Vân bằng hai chữ “trang trọng”. Đó là vẻ đẹp cao sang, quí phái, ung dung và nghiêm chỉnh. Tiếp tục sử dụng lối ước lệ, nhà thơ đã ví nhan sắc của Vân với những hình ảnh đẹp nhất của thiên nhiên, vũ trụ như: trăng, hoa, mây, tuyết, ngọc. Có thể nói, dưới ngòi bút miêu tả của Nguyễn Du, chân dung vẻ đẹp của Vân hiện lên lộng lẫy, toàn diện từ khuôn mặt, nét mày ngài, nụ cười cho đến lời nói, mái tóc, làn da. Tất cả đều hiện lên sống động, cụ thể như hiện hình, nổi sắc trước mắt người đọc vậy. Đó là chân dung người thiếu nữ có khuôn mặt tròn đầy phúc hậu như ánh trăng đêm rằm; đôi lông mày thanh tú, sắc nét như con ngài (mắt phượng mày ngài); miệng cười thì tươi tắn như hoa nở; tiếng nói khi thốt ra thì trong trẻo, ngọc ngà; mái tóc đen óng ả hơn cả mây; làn da trắng mịn màng hơn cả tuyết. Chính vẻ đẹp bên ngoài của Vân với vẻ đẹp phúc hậu, hài hòa trong khuôn khổ của lễ giáo phong kiến nên được thiên nhiên, tạo hóa chấp nhận: “tuyết nhường” ,”mây thua”. Từ đó, giúp người đọc phần nào thấy được tính cách và số phận của nhân vật: tính cách ung dung, điềm đạm; cuộc đời: bình yên không sóng gió.Sau khi dựng lên chân dung và vẻ đẹp nhân vật Thúy Vân, nhà thơ tập trung bút lực vào miêu tả vẻ đẹp của Kiều trong sự đối sánh với vẻ đẹp của Vân:Kiều càng sắc sảo mặn màSo bề tài sắc lại là phần hơnVẻ đẹp của Kiều khác và hơn hẳn Vân cả về tài lẫn sắc. Đó là sự “sắc sảo” về trí tuệ; “mặn mà” về tầm hồn.Trước hết là vẻ đẹp nhan sắc – ngoại hình của Kiều. Vẫn tiếp tục sử dụng thủ pháp ước lệ tượng trưng lấy vẻ đẹp của thiên nhiên làm thước đo cho vẻ đẹp của con người qua một loạt các hình ảnh: thu thủy, xuân sơn, hoa, liễu, Nguyễn Du đã làm hiện vẻ đẹp của một trang giai nhân tuyệt mĩ. Nhưng khi miêu tả Kiều, tác giả không miêu tả cụ thể chi tiết như ở Vân mà ngược lại, tác giả tập trung vào một điểm nhìn là đôi mắt “Làn thu thủy nét xuân sơn”: Đôi mắt sáng trong và sâu thẳm như làn nước mùa thu; đôi lông mày thanh thoát như nét núi mùa xuân. Đây chính là lối vẽ “điểm nhãn” cho nhân vật. Bởi đôi mắt chính là cửa sổ tâm hồn con người. Và qua đôi mắt đó của Kiều, ta thấy được tâm hồn trong sáng, sâu thẳm và cuốn hút lạ thường của nhân vật. Vẻ đẹp nhan sắc của Kiều là vẻ đẹp vượt ra khỏi chuẩn mực của tự nhiên và khuôn khổ của người phụ nữ phong kiến nên: “Hoa ghen – liễu hờn” và thậm chí là nghiêng ngả cả thành quách, đất nước:Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanhMột hai nghiêng nước nghiêng thànhNghệ thuật nhân hóa (hoa ghen – liễu hờn) kết hợp với nghệ thuật nói quá (thành ngữ: Nghiêng nước nghiêng thành) vừa có tác dụng gợi tả vẻ đẹp của Kiều ; lại vừa có tác dụng dự đoán về số phận, cuộc đời của nàng. Bởi vẻ đẹp đó gợi lên mâu thuẫn, không hài hòa (khác với Vân: thua – nhường: hài hòa, bình yên) nên chắc chắn cuộc đời nàng sẽ truân chuyên, trắc trở: “Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần”.Tiếp đến là vẻ đẹp tài năng của Kiều. Nếu như khi tả Vân, nhà thơ chỉ chú trọng vào khắc họa vẻ đẹp nhan sắc mà không chú trọng tới miêu tả tài năng và tâm hồn thì khi tả Kiều, nhà thơ chỉ tả sắc một phần, còn lại dành phần nhiều vào tài năng:Sắc đành đòi một tài đành họa haiChỉ một câu thơ mà nhà thơ đã nêu được cả sắc lẫn tài. Nếu như về sắc thì Kiều là số một thì về tài không ai dám đứng hàng thứ hai trước nàng. Tài năng của Kiều có thể nói là có một chứ không có hai trên đời. Vì được trời phú cho tính thông minh nên ở lĩnh vực nghệ thuật nào Kiều cũng toàn tài: cầm – kì – thi – họa. Tất cả đều đạt đến mức lí tưởng hóa theo quan niệm thẩm mĩ của lễ giáo phong kiến: “Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm”. Đặc biệt tài năng của Kiều được nhấn mạnh ở tài đàn: “Cung thương lầu bậc ngũ âm/ Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương”: nàng thuộc lòng các cung bậc và đánh đàn Hồ cầm (đàn cổ) thành thạo. Hơn thế, nàng còn giỏi sáng tác nhạc nữa: “Khúc nhà tay lựa nên chương/Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân”. Mỗi nàng lần đánh đàn, nàng lại cất lên bài hát “Bạc mệnh” làm cho người nghe phải đau khổ, sầu não. Bài hát chính là tâm hồn, là bản đàn theo suốt cuộc đời Kiều, biểu hiện một trái tim đa sầu đa cảm và cuộc đời éo le, bất hạnh.Tóm lại: Chân dung của Kiều là bức chân dung mang tính cách và số phận. Vẻ đẹp của Kiều là vẻ đẹp khác người nên làm cho thiên nhiên phải ghen tị “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”; tài năng của Kiều vượt trội hơn người nên chắc chắn theo một qui luật thông thường của định mệnh “Chữ tài đi với chữ tai một vần” hay “Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau” nên cuộc đời Kiều là cuộc đời của một kiếp hồng nhan bạc mệnh, éo le và nghiệt ngã.Đến đây chúng ta thấy được tài năng độc đáo của Nguyễn Du trong việc khắc họa chân dung nhân vật. Từ vẻ đẹp chân dung, nhà thơ thể hiện những dự cảm về tính cách, cuộc đời, số phận của nhân vật. Và mặc dù, ở đầu đoạn trích, tác giả giới thiệu Thúy kiều là chị, em là Thúy Vân nhưng sau đó, nhà thơ lại miêu tả chân dung nhân vật Vân trước, Kiều sau. Đó là một dụng ý nghệ thuật của nhà thơ trong việc tạo ra thủ pháp “đòn bẩy”. Điều đó có tác dụng nhấn mạnh và làm nổi bật được vẻ đẹp độc đáo, vượt trội về cả sắc lẫn tài và tình của nhân vật Thúy Kiều. Vì thế, tuy cùng sử dụng nghệ thuật ước lệ tượng trưng khi miêu tả hai nhân vật nhưng chúng ta thấy được mức độ đậm nhạt khác nhau ở mỗi người. Nhà thơ chỉ dùng bốn câu để tả Vân, còn lại dành tận mười hai câu để tả Kiều; tác giả khi tả Vân chỉ tập trung tả nhan sắc nhưng khi tả Kiều thì “sắc đành đòi một, tài đành họa hai”. Mặc dù vậy nhưng ở nhân vật nào cũng hiện lên rất sống động, cụ thể, chân thực, mang vẻ đẹp, tính cách, số phận khác nhau.Bốn câu thơ cuối là lời bình của tác giả về cuộc sống của hai chị em Thúy Kiều:Phong lưu rất mực hồng quầnXuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kêÊm đềm trướng rủ màn cheTường đông ong bướm đi về mặc ai.Sau khi dựng lên bức chân dung của hai chị em Kiều – Vân, Nguyên Du đưa ra những lời nhận xét chung về cuộc sống của hai người. Họ sống trong một gia đình phong lưu, rất gia giáo và họ đang sống trong tầm tuổi sắp sửa được phép thành lập gia đình. Thành ngữ “Trướng rủ màn che” để chỉ một lối sống kín đáo, đây là lối sống của tiểu thư con nhà gia giáo, sống trong bốn bức tường, ít khi giao tiếp bên ngoài để học nữ công gia tránh rất la khuôn phép. Hình ảnh “ong bướm” là hình ảnh ẩn dụ để chỉ những người đàn ông tán tỉnh phụ nữ không có mục đích tốt đẹp. Và với những loại người ấy, hai chị em Kiều không thèm để ý tới.Tóm lại, bằng bút pháp ước lệ, lấy vẻ đẹp của thiên nhiên để gợi tả vẻ đẹp của con người, Nguyễn Du đã khắc họa thành công vẻ đẹp chân dung hai chị em Vân – Kiều. Qua đó, chúng ta thấy được cảm hứng ngợi ca vẻ đẹp, tài năng con người và dự cảm về kiếp người tài hoa bạc mệnh đầy nhân văn ở Nguyễn Du.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
Bảng tin
0
34
0
Ko phải tuyệt vời mà là qua tuyệt vời cảm ơn chị nhìu