

Hãy luôn nhớ cảm ơn và vote 5*
nếu câu trả lời hữu ích nhé!
Có ý kiến cho rằng:'nhà thơ là người dẫn đường đưa chúng ta đến xứ sở của cái đẹp muốn sáng tạo ra cái đẹp người nghệ sĩ phải chắt lọc được cuộc sống bản thân người nghệ sĩ phải có tài năng tạo ra những trang Văn tờ hoa đẹp phải có hiểu biết sâu rộng của tâm hồn tinh tế nhạy cảm". Quang Dũng là một nghệ Sĩ đa Tài làm thơ vẽ tranh soạn nhạc ở lĩnh vực nghệ thuật nào Quang Dũng cũng An tường nhưng trước hết ông là một nhà thơ với hồn thơ phóng khoáng lặng mảng hồn hậu tài hoa. Bài thơ Tây Tiến là một trong những thi phẩm đặc sắc của Quang Dũng rút trong tập mới đầu ô năm 1986 bài thơ là những hồi ức kỷ niệm những tháng năm gian khổ hào hùng của quân và dân ta. Đoạn mở đầu gồm 14 câu đã tái hiện thành công hình tượng người lính trên chặng đường hành quân gian lao vất vả. Sông mã xa rồi tới Tây Tiến ơi! ........ Mai Châu mùa em thơm nếp xôi. Bài thơ được viết năm 1948 tại phố lưu tranh trong nỗi nhớ đơn vị cũ bài thơ ban đầu có tên là nhớ Tây Tiến sau đổi thành Tây Tiến. Bài thơ là nỗi nhớ là hồi ức tháng ngày gian khổ vượt núi băng rừng bài thơ là sự kết hợp giữa cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng đây là sản phẩm nghệ thuật xuất sắc nhất của đời thơ Quang Dũng là sản phẩm tiêu biểu của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Cả bài thơ Tây Tiến gồm bốn đoạn kết cấu theo dòng hồi tưởng làm sống lại cả một thời Tây Tiến với những nẻo đường gian nao mà họ phải vượt qua cũng từ đó cái tôi lãng mạn của Quang Dũng bộc lộ rõ nét. Hai câu đầu là nỗi nhớ khái quát về đoàn quân Tây Tiến. "Sông mã xa rồi Tây Tiến ơi! Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi". Đây là khúc dạo đầu của nỗi nhớ nỗi nhớ đơn vị cũ đồng đội cũ chào dân khiến nhà thơ thốt lên thành tiếng gọi gọi Tây Tiến-gọi đơn vị cũ mà như gọi người thân yêu. Câu thơ có bảy chữ thì bốn chữ chỉ tên riêng sự xuất hiện của những địa danh ấy khiến nỗi nhớ trải dài theo chiều không gian, sau tiếng gọi ấy là hai từ "nhớ"được Điệp lại."nhớ"thứ nhất là nhớ rừng núi Tây Bắc nhớ về địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến, chứ"nhớ"thứ hai là nhớ chơi vơi đó là nỗi nhớ đau đầu không nguội đóng mãi trong lòng người chiến sĩ là nỗi nhớ giữa hai hư thực giữa quá khứ hiện tại giữa xưa và nay. Như vậy nỗi nhớ là trạng thái cảm xúc vô hình trừu tượng không có hình khối màu sắc nhưng cái tài của người nghệ sĩ làm cụ thể hóa nỗi nhớ Thành"nhớ" chơi vơi. Tiếng gọi cùng nỗi nhớ đã không khơi nguồn đánh thức bao kỷ niệm về một thời Tây Tiến đó là kỷ niệm về núi rừng miền núi Tây Bắc và cung đường hành quân về tình đồng chí đồng đội tình quân dân cán nước. 10 câu tiếp là nỗi nhớ về chặng đường hành quân đẩy gian lao thử thách trên nền thiên nhiên hùng vĩ. Sáu câu đầu. "Sài khao xương lấp đoàn quân mỏi. Mường lát hoa về trong đêm hơi. Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm. Heo hút cồn mây súng ngửi trời. Ngàn thuốc lên cao , ngàn thuốc xuống. Nhà ai pha luông mưa xa khơi". Sài khao, mường lát, pha luông, là những địa danh miền đất đoàn quân Tây Tiến đã đi qua, hình ảnh"sai khao xuống lớp đoàn quân mỏi"gọi một không gian mịt mù sương khói lạnh lẽo của núi rừng đoàn quân Tây Tiến đã bao ngày đêm rãi gió dầm mưa vượt núi băng rừng ta nghe như tiếng hơi thở mệt nhọc bước chân nặng nề của mỗi chặng đường hành quân của các anh" những lượng thử vàng gian nan thử sức"ý chí nghị lực các anh đã vượt lên hoàn cảnh, một trong những đặc trưng nổi bật của thiên nhiên Tây Bắc là núi cao vực thẳm. " Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm. Heo hút cồn mây súng ngửi trời. Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống". Thủ pháp đối lập"dốc lên khúc khuỷu"đối lập với"giúp thăm thẳm"đối lập"ngàn thuốc lên cao","làm thuớc xuống"cách ngách nhịp 4/3 khiến câu thơ như bị bẻ gãy gọi hai chiều lên xuống của núi cao dốc đèo. Đặc biệt những từ láy tượng hình như khúc khuỷu thăm thẳm heo hút không chỉ đặc tả thiên nhiên dữ dội hoang sơ hùng vĩ của miền Tây Bắc mà còn gọi liên tưởng chặng đường hành quân của người lính như trận đồ bát quái nguy hiểm trắc trở nên thác xuống ghềnh để thử thách lòng can đảm của các anh có những chặng đường là vực sâu thăm thẳm không có đáy chặng đường đi qua những ngọn núi cao chót vót tưởng như đó là chặng đường lên trời nhưng với người lính Tây Tiến:. "Dốc núi cao cao nhưng lòng quyết tâm còn cao hơn núi. Vực sâu thăm thẳm vực nào sâu bằng chí căm thù". (Hết dấu chấm mới là một câu thơ ) . Người lính chinh phục được những ngọn núi dốc đèo tưởng chừng giữa mây trời mái đầu họng súng của các anh chạm tới đỉnh trời chữ gửi là cách nói nhân hóa phóng đại để thể hiện đi ngổn ngang tàn của người lính trẻ đó không phải là chân trời mà là ngửi trời điều đó chứng tỏ thiên nhiên càng khốc liệt bao nhiêu thì người lính càng ý chí nghị lực bấy nhiêu, mặc dù gian khổ như vậy người lính vẫn có một tâm hồn lãng mạn mở rộng tầm nhìn để cảm nhận vẻ đẹp nên thơ của những cánh hoa rừng thấy trong màn mưa găng. "Thấy trong màn mưa găng. Vài ngõ nhà nhỏ ẩn hiện. thấp thoáng ở phân luông ". Như vậy Quang Dũng đã tô đậm cái phim thường của người lính Tây Tiến các anh vượt núi băng rừng chèo đèo lội suối để giữ trọn lời thề"quyết tử cho tổ quốc quyết sinh"trở thành sự thật. Hai câu tiếp nói về sự mất mát hy sinh của người lính Tây Tiến. " anh bạn dãi dầu không bước nữa. Gục lên súng mũ bỏ quên đời! ". Quang Dũng không ngần ngại nói đến sự mất mát khi sinh trong chiến tranh những hình ảnh dãi dầu không bước nữa gục lên xuống mũ bỏ quên đời gọi hiện thực khốc liệt của chiến tranh không phải cuộc dạo chơi mà là cuộc Chiến khốc liệt có những người lính phải bỏ mạng trên chặng đường hành quân ấy đã hi sinh Tuy nhiên chết không có nghĩa là hết có những cái chết là sự gieo mầm cho sự sống cho chân lý mọc lên người lính Tây Tiến ngã xuống khẳng định một chân lý đó là lòng yêu quê hương đất nước là tinh thần quyết tử cho tổ quốc quyết sinh đó là cái chết sự hi sinh cao cả nói như Tố Hữu:. " có cái chết hóa thành bất tử. Có những lời hơi mọi bài ca". Hai câu tiếp Quang Dũng không chỉ nhớ thiên nhiên Tây Tiến hùng vĩ dữ dội có dốc Cao vực thẳm mà mảnh đất ấy còn có những quy luật riêng đặc trưng của núi rừng. "Chiều chiều oai linh thác gầm thét. Đêm đêm mường hịch cọp trêu người". Những âm thanh khác gầm thét gót trêu người là những âm thanh nguy hiểm đối với người lính họ không chỉ thiếu thốn vật chất mà họ còn gặp thú dữ nơi rừng thiêng nước động nhưng tất cả cũng không ngăn cản được bước chân mở núi băng rừng tiến về phía trước của các anh. Hai cuối kết thúc đoạn thơ là điểm dừng chân của người lính ở bản làng. "Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói. Mai Châu mùa em thơm nếp xôi". Nếu những câu trước là âm thanh chúc chắc gân guốc thì cô thơ này tạo cảm giác êm dịu ấm áp với các anh được sống trong tình quân dân thắm thiết đó là các anh nhận được sự che chở đùm bọc của đồng bào Tây Tiến Hương bữa cơm nồng ấm được cảm nhận hương thơm nếp xôi đầu mùa khiến bao mệt mỏi nhọc nhằn tan biến tình quân dân chưa ngọt sẽ vùi trong kháng chiến chúng ta còn gặp trong Việt Bắc của Tố Hữu : "thương nhau chia củ sắn lùi. Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng". Những kỷ niệm đơn sơ nhỏ bé trên đường hành quân có khả năng làm ấm lòng trở thành điểm tựa tinh thần giúp các anh bước tiếp những chặng đường phía trước để hoàn thành nhiệm vụ lý tưởng cao cả của người lính cụ Hồ trong kháng chiến. Tóm lại đoạn thơ chỉ 14 câu nhưng giống như một bức họa tái hiện về một mốc Xuân lịch sử của dân tộc ngôn ngữ văn chương đúng là loại thơ phi thể không hình khối không mù mịt nhưng lại có khả năng vẽ lên trong tưởng tượng của người đọc một cách sinh động y như thật ta có thể đặt tên cho đoạn thơ bức tranh này là chặng đường hành quân của người lính cụ Hồ trong bức tranh ấy những người lính là nhân vật trung tâm là linh hồn bức tranh không chỉ thể hiện khí phách của người lính thời chống Pháp mà còn thể hiện sức mạnh tinh thần của Toàn dân tộc. Đoạn thơ tin ngắn nhưng giống như một bài thơ nhỏ tương đối đầy đủ về nội dung tư tưởng và thức nghệ thuật đoạn thơ đã xây dựng thành công hình tượng người lính Tây Tiến trên nền thiên nhiên hùng vĩ dữ dội mỹ lệ của miền Tây Bắc. Sử dụng thành công bút pháp thi trung hữu họa ngôn ngữ hình ảnh thơ gân guốc khỏe khoắn để tái hiện vẻ đẹp kiên cường dũng mãnh của người lính Tây Tiến sử dụng sinh động các biện pháp tu từ đối lập điện từ nhân hóa. Thơ là sự rung động tâm hồn mình và làm rung động tâm hồn người khác bài thơ Tây Tiến nói chung và đoạn thơ nói riêng đã làm rung động bao trái tim bạn đọc đoạn thơ đã tái hiện cung đường hành quân của người lính Tây Tiến trên nền cảnh thiên nhiên hùng vĩ Mĩ lệ không chỉ vậy còn hướng cho chúng ta đến xứ sở của cái đẹp đó là tình yêu quê hương đất nước tha thiết tinh thần chiến đấu dũng cảm ý chí nghị lực kiên cường và tinh thần lạc quan cách mạng
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?

1. Qua nỗi nhớ Quang Dũng tái hiện lại thiên nhiên rừng núi Tây Bắc; những con đường hành quân; nhớ những người đồng đội cùng với kỉ niệm ấm áp tình quân dân. (Khổ 1)
a. 4 câu thơ đầu: Nhớ về những địa danh, những tên đất, tên làng
→ Tây Tiến là 1 mốc son chói lọi của đời thơ Quang Dũng viết về đề tải người lính. Bài thơ sáng tác tại Phù Lưu Chanh vào năm 1948, khi Quang Dũng đã chuyển sang đơn vị khác. Nhưng những ngày tháng Quang Dũng chiến đấu, sống ở đoàn quân Tây Tiến chưa lâu, với những kỷ niệm khó quên nên nỗi nhớ Tây Tiến da diết, cồn cào trong lỏng tác giả.
→ Cảm hứng chủ đạo trong suốt bài thơ là cảm hứng về nỗi nhớ. Tác giả nhớ về cuộc sống gian khổ, nhớ về kỷ niệm những đêm liên hoan, về cái âm u, hoang dã của rừng núi và in đậm nhất là nỗi nhớ của người linh Tây Tiến. Ra đi kháng chiến khi còn là thanh niên, học sinh Hà Nội, Quang Dũng trở thành người lính. Kỷ niệm làm người linh Tây Tiến đã xa mà lại rất gần, để ghi nhớ lại, tác giả phải bật lên.
- Câu thơ đầu tiên; "Sông Mã xa rồi Tây Tiền ơi!” +Câu thơ có 7 chữ thì có đến 4 từ là tên riêng (“Sông Mã” và “Tây Tiến”). “Sông Mã” là điểm khởi đầu, điểm về, điểm đến của nỗi nhớ này
+ Câu thơ như tiếng gọi chân thành, tha thiết xuất phát từ trái tim và tâm hồn người thi sĩ. Bằng cách sử dụng câu cảm thán mở đầu bài thơ, Quang Dũng đã gọi tên cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ cồn cào, da diết về núi rừng Tây Bắc, bằng thủ pháp nghệ thuật nhân hoá, câu thơ trở nên đẹp diệu kỳ. "Sông Mã" không đơn thuần là một con sông mà nó đã trở thành một hình ảnh hiện hữu, một chứng nhân lịch sử trong suốt cuộc đời người linh Tây Tiến với bao nỗi vui buồn, được mất.
+ “Tây Tiến” không chỉ để gọi tên một đơn vị bộ đội mà nó đã trở thành một người bạn “tri âm, tri kỉ” để nhà thơ giải bảy tâm sự.
- Câu thơ thứ 2: “Nhớ về rừng núi nhớ chơi
+ Câu thơ thứ 2 với điệp từ "nhớ" được lặp lại 2 lần đã diễn tả nỗi nhớ quay quắt, còn cảo đang xả vào tâm trí Quang Dũng. Tỉnh từ “chơi vơi" kết hợp với từ "nhớ" đã khắc sâu được tình cảm nhớ nhung da diết của nhà thơ và nỗi nhớ đó như một con thác lũ trản vào tâm trí nhà thơ đã đẩy ông vào trạng thái bổng bềnh, hư ảo. Hai câu đầu với cách dùng từ chọn lọc, gợi hình gợi cảm đã mở cửa cho nỗi nhớ trào dâng mãnh liệt trong tâm hồn nhà thơ.
+Câu thơ này láy vần “ơi" với chữ cuối cùng của câu thơ trước diễn tả nỗi nhớ vừa sâu lắng, mênh mang, chênh chao giữa hai bờ hư thực, nỗi nhớ không nổi hình, nổi khối, khi cụ thể, khi chìm khuất đi trong hư ảo, chơi vơi.
+ Trong ca dao chúng ta cũng đã bắt gặp nỗi nhớ “chơi vơi" như “Ra về nhớ bạn chơi vơi” hay “Tương tư nâng lòng lên chơi vơi".
- Hai câu thơ tiếp:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mới Mường Lát hoa về trong đêm hơi.
+ Quang Dũng đã liệt kê hàng loạt các địa danh như: “Sài Khao”, “Mường Li t^ prime prime “Pha Luông"...Đó là địa bản hoạt động của binh đoàn Tây Tiến, những nơi họ đi qua và dùng chân trên bước đường hành quân gian khổ, mệt nhọc. Nói đến Tây Bắc, là nói đến vùng đất có địa hình hiểm trở, khí hậy khắc nghiệt. Có những đêm dài hành quân người lính Tây Tiến vất vả đi trong đêm dày đặc sương giăng, không nhìn rõ mặt nhau. “Đoàn quân mỏi" nhưng tinh thần không “mỏi". Bởi ý chí quyết tâm ra đi vì tổ quốc đã làm cho những tri thức Hà thành yêu nước trở nên kiên cường, bất khuất hơn. Quang Dũng đã rất tải tỉnh khi đưa hình ảnh “sương” vào đây để khắc hoạ hơn sự khắc nghiệt của núi rừng Tây Bắc trong những đêm dài lạnh lẽo. Cũng miêu tả về “sương”, Chế Lan Viên cũng đã viết trong “Tiếng hát con tàu":
Nhớ bản sương giăng, nhở đèo mây phủ Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu thương
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hoả tâm hồn
Hay:
Đêm nay rừng hoang sương muối Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo
(“Đồng chí - Chính Hữu)
+ Trong câu thơ của Quang Dũng hiện thực của cảnh vật thiên nhiên rừng núi khắc nghiệt đã được thi vị hóa bởi cảm hứng lãng mạn bằng cách dùng từ và nhịp câu thơ:
. Quang Dũng dùng từ “sương lấp” để miêu tả đoàn quân dãi dầu, mệt mỏi, thấp thoáng ẩn hiện trong sương nhưng không hề bị chìm lấp hẳn. "Hoa v hat e ^ prime prime nhẹ nhàng, tinh tế chữ không còn là hoa nở; đêm sương trở thành “đêm hơi" bồng bềnh; những ngọn đuối soi đường di chuyển dọc theo con đường chiến sĩ hành quân được nhìn thành những đóa “hoa” chập chờn, lung linh, huyền ảo... . Nhịp câu thơ 4/3 cùng với những thanh bằng nhẹ bỗng trong câu thơ càng làm đậm thêm sự hư ảo của màn sương rừng. Sự khắc nghiệt của thiên nhiên đã được cảm nhận một cách thi vị bởi những tâm hồn lãng mạn, hảo hoa.
b. 4 câu tiếp: Nhớ về những chặng đường hành quân gian khổ trên nền thiên nhiên TB hùng vĩ, dữ dội nhưng đồng thời cũng thơ mộng, huyền ảo: Đây là 4 câu thơ tuyệt bút của bài thơ.
→ Hình ảnh người linh trong kháng chiến chống Pháp đã được nhiều nhà thơ nói đến với tất cả những nét đẹp đẽ và đáng mến phục. Đọc “Tây Tiến” của Quang Dũng, ta lại bắt gặp hình ảnh người lính dũng cảm, oai hùng trong gian khổ vất vả và thêm vào đó là nét thơ mộng mơ rất bay bổng, lãng mạn làm cho ta nhớ mãi. Những gian khổ, nguy hiểm của người linh mà Quang Dũng ghi lại trong “Tây Tiến” rất thực, thực đến nghiệt ngã. Có lẽ chỉnh vị thế mà khi bải thơ ra đời đã phải chịu một số phận khá éo le. Nhưng rồi cuối cùng bài thơ cũng được người đọc tiếp nhận với những gì mà nó vốn có. Có lẽ chính nhờ cái hiện thực nghiệt ngã đó mà hình ảnh người lính càng đẹp hơn và thắng lợi của dân tộc càng được đưa lên tầm cao hơn, vĩ đại hơn.
* Hình ảnh thiên nhiên hùng vĩ, dữ dội nhưng đồng thời cũng thơ mộng, huyền ảo:
- Sử dụng các từ láy tượng hình: “khúc khuỷu, thăm thẳm, heo hút", đây là những từ láy toàn vẫn trắc nên diễn tả một cách đắc địa sự hiểm trở của núi rừng, những chặng đường hành quân mà người lính Tây Tiến phải đi qua thi hiểm nguy luôn rình rập. +"khúc khuỷu”: Đường đi hiểm trở, nhiều gấp khúc
+ “thăm thẳm": Tử chỉ độ sâu được dùng để chỉ độ cao, cao đến rợn người. Quang Dũng đã khéo léo sử dụng từ “thăm thăm” mà ko dùng từ “chót vót” bởi nói “chót vót” người ta còn có thể cảm nhận và thấy được bề sâu của nó nhưng “thăm thẳm" thì khó có ai có thể hình dung được nó sâu thế nào.
+"heo hút”: Câu thơ chỉ độ cao rất độc đảo vì nó là từ chỉ độ sâu như cái “sâu chót vót" trong câu thơ của Huy Cận. Ở đây núi cao tưởng chừng chạm mây nên nổi thành cổn heo hút.
Sử dụng phép đổi trong câu thơ: “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”, đổi “lên cao” với “thước xuống”, dấu phẩy đã bẻ gãy nhịp câu thơ một cách đột ngột và tạo thành 2 về đối lập nhau. Thế núi bây giờ cao và nguy hiểm đến khủng khiếp, dốc vút lên cao rồi đổ xuống ngay lập tức gần như thẳng đứng, nhìn lên thì cao vút còn nhìn xuống thì sâu thăm thăm. Một độ cao đến chóng mặt và nguy hiểm. - Thanh điệu (bằng trắc):
+"Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm": Câu thơ 7 chữ thì có tới 5 thanh trắc, gợi nên cảm giác con đường hành quân của người lính Tây Tiến quanh co, gập ghềnh, trắc trở, hiểm nguy. Ta nghe như có tiếng thở mệt nhọc của người lính khi vượt qua đèo dốc, vực sâu:
+“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi": Câu thơ được gieo toàn vẫn bằng, gợi cảm giác mênh mang, bâng khuâng. Người lính Tây Tiến như phóng tầm mắt ra xa để cảm nhận trọn vẹn vẻ đẹp của núi rừng. Trong làn mưa giăng giăng của núi rừng Tây Bắc thì những ngôi nhà ẩn hiện trong làn mưa ấy cử bổng bềnh, bồng bềnh như là 1 biển mưa. Nhìn từ góc độ hội họa thì nó giống như 1 bức tranh thủy mặc có những cái tả sắc nét, cận cảnh nhưng cũng có những khoảng trống, khoảng lặng huyền ảo. Nếu như câu thơ đầu sử dụng toàn thanh trắc là những nét vẽ gần guốc, chắc khỏe thì câu cuối lại toàn thanh bằng là nét vẽ mềm mại, dịu mát cả bức tranh.
— Bài thơ “Tây Tiến” dưới ngòi bút của lãng mạn, trữ tình của Quang Dũng đã trở thành 1 kiệt tác của mọi thời đại. Cảm hứng chủ đạo xuyên suốt bài thơ đó là cảm hứng về nỗi nhỏ. Quang Dũng đã miêu tả nỗi nhớ đỏ bằng ngòi bút tải tinh giàu chất nhạc, chất hoạ và đậm chất thơ. Bài thơ là 1 khúc nhạc của tâm hồn của cuộc sống. Bởi thế, Xuân Diện thật chính xác khi cho rằng đọc bải thơ “Tây Tiến" như đang ngậm âm nhạc trong miệng. Bài thơ hay bởi lẽ nó được viết nên tử ngòi bút hảo hoa, lãng mạn và của 1 người lính Tây Tiến nên nó có 1 cái rất riêng và đẹp. Mang chất lính nên Quang Dũng mới có thể viết nên những vần thơ hay như thế.
* Người lính Tây Tiến toát lên vẻ đẹp hào hùng, lãng mạn: - Câu thơ “Heo hút cổn mây sủng ngọn trời":
+Quang Dũng đã viết “súng ngưn trời” chủ không phải là “súng chạm trời", nếu “chạm” hay “đụng” thì ý của câu thơ sẽ yếu hẳn đi. Đây là cách viết tự nhiên, đậm chất linh, một cách viết “bạo” vì từ “ngửi” bản thân nó thô rất ít dùng trong thơ, khi Quang Dũng dùng “ngửi” thì đã là nhân hóa, đã thành thơ.
+ Đây là cách viết gợi hình, gợi cảm: Khi người lính Tây Tiến hành quân qua các đỉnh núi cao, mũi súng như chạm đỉnh trời đó là hiện thực nhưng qua cách nói này tôn thêm vẻ đẹp khi phách của người lính. Đồng thời đây cũng là cách nói rất lính, giây phút đùa vui tếu táo, tinh nghịch của những đồng đội trẻ với nhau.
+ Cách viết này cũng thể hiện độ cao chóng mặt khi kết hợp với hình ảnh mây trời “heo hút”. Cách viết còn thể hiện niềm lạc quan, ý chi "Đèo cao thì mặc đèo cao Trèo lên đến đỉnh ta cao hơn đèo" của các chiến sĩ Tây Tiến.
- Đây là cách nói, cách nghĩ của những người lính trẻ lạc quan, yêu đời, hồn nhiên và trong sáng. Tầm vóc của họ thật lớn lao, họ mang hảo khi vinh quang của người dũng sĩ Binh Nguyên đời
nhà Trần (Hảo khi Đông A).
- Thời đại đã đem đến cho Quang Dũng không chỉ một liên tưởng lạ lùng, kỳ thú mà còn là hình tượng thơ hết sức kỳ vĩ. Khẩu súng cùng với người linh như đang đứng ở đỉnh cao của thời đại gợi ta nhớ tới hình ảnh người tráng sĩ vệ quốc cầm ngang ngọn giáo đứng giữa non sông trong câu thơ của Phạm Ngũ Lão: "Hoành sóc giang san cấp ki thu hay hình tượng người lính vệ quốc trong câu thơ của Tổ Hữu
Rất đẹp hình ảnh lúc nắng chiều
Bỏng dài trên đỉnh dốc cheo leo Núi không đề nổi vai vươn tới
Lá nguỵ trang reo với giỏ đèo ("Lên Tây Bắc")
Song ở câu thơ của Quang Dũng, người linh thật hồn nhiên và lãng mạn, vừa thật, vừa khái quát, vừa giàu ý nghĩa tượng trưng. c. 6 câu còn lại: Nhớ người đồng đội và kĩ niệm ẩm áp tình quân dân
→ Những cuộc hành quân đi qua và những cuộc hành quân mới lại tiếp nối trong cuộc đời người lính của Quang Dũng. Nhưng có lẽ cái mỏi mệt của những cuộc hành quân lần đầu sẽ không bao giờ đi qua cùng năm tháng. Người lính Tây Tiển trai trẻ, hào hoa thì khó khăn, gian khổ phải chăng để thử lòng, thử sức, thử độ bền gan của người họ mà thôi.
* Hai câu thơ:
Anh bạn dãi đầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời.
“Không bước nữa": Phải chăng gian khổ đã quá sức chịu đựng nên trên đường hành quân, nhiều người người lính Tây Tiến đã nằm lại mảnh đất nơi xa lạ mà không bao giờ tỉnh dậy.
“Gục lên sủng mũ": Đây là 1 hình ảnh rất đắt, “gục” là 1 động từ có tính tạo hình, biểu cảm. QD đã tránh dùng từ hi sinh (chết) nhưng vẫn giữ được thực tế trấn trai, nghiệt nghĩ của cuộc chiến tranh. Câu thơ làm ta chợt nhớ đến dáng đứng của anh giải phóng quân về sau:
Anh ngã xuống trong khi đang đứng bắn Mẫu anh phun theo lửa đạn cầu vồng.
Dáng đứng của anh giải phóng quân đi mãi vào lòng những người dân trong kháng chiến chống Mĩ thì dáng ngã gục xuống của anh lính cụ Hồ hẳn sẽ không phai mờ trong tâm hồn của Quang Dũng, của đoàn quân Tây Tiến và của những người tham gia kháng chiến. "Gục lên súng mừ" cũng là cách nói nhẹ và cũng là cách nói của những người thanh niên trí thức lúc bấy giờ. Người lính ra đi nhưng đồng đội anh lại tiếp bước.
“Bỏ quên đời". Người lính không chịu nỗi gian khổ đã hi sinh nhưng cũng tìm được cho mình một tư thế chết của người chiến sĩ. "Bỏ quên đời" chỉ là cách nói nhằm giảm nhẹ sự mất mát, tang thương khi người lính từ trần. Cái chết bây giờ trở nên không đáng kể, chỉ là chuyện nhỏ. Cách nói giảm này đã giảm phần thê lương mà tăng thêm cái tính chất cao cả, sự hi sinh thẩm lặng của những người lính Tây Tiến. “Bỏ quên đời". Đôi khi đó cũng là giấc ngủ tạm thời, vội vàng của người lính
trên chặng đường hành quân của mình cho đỡ mệt mọi, tiếp thêm năng lượng cho những chặng tiếp theo. Với người lính Tây Tiến thì cái chết đã có trong tiềm thức của họ từ lâu, họ sẵn sàng đối mặt nên cái chết với họ cũng “nhẹ tựa lông hồng”. * Hai câu thơ tiếp:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.
Quang Dũng đã chọn ra 2 mốc thời gian là "Chiều chiều" và “đêm đêm” đây là thời điểm mà chốn rừng núi bộc lộ rõ nhất sự rùng rợn, hiểm nguy. Những âm thanh ấy, “thác gầm thét”, “cọp trêu người”, luôn khẳng định cái bí mật, cái uy lực khủng khiếp ngàn đời của chốn rừng thiêng nước độc.
- Hình như có ai đó đã nói về cách sử dụng từ “Mưởng Hịch" của Quang Dũng. Địa danh xa xôi này đọc lên có cảm giác như tiếng chân cọp đi trong đêm. Rừng núi trở nên rờn rợn, nguyễn vẻ hoang sơ của nó. Ở nơi xa xôi con người lần đầu đặt chân, thiên nhiên là chủ thì khó khăn như tăng thêm bội phần.
- Nhưng nét lạc quan, vui vẻ của người lính vẫn chẳng thể mất dọc cuộc hành trình. Quang Dũng rất thành công khi sử dụng từ “trêu” trong câu thơ "Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người", vì trêu là trêu đùa nên thành ra cọp, thú dữ chỉ là trêu đùa để thử thạch sự dan dạ, bền gan của người lính Tây Tiến mà thôi.
* Hai câu thơ tiếp:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khỏi
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
Lần thứ 2 trong bài thơ nhà thơ gọi tên đơn vị Tây Tiến của mình là “Nhớ ôi Tây Tiến", phải chăng nhớ quá những gian khổ, những kỉ niệm gắn bỏ với các đồng đội của mình nên Quang Dũng mới thốt lên như vậy. “Nhớ ôi!” từ cảm thán mang tình cảm dạt dão.
- Hình ảnh "cơm lên khỏi": Phải chăng sau chặng đường dài hành quân mỏi mệt, các chiến sĩ có dịp dừng chân lại ở một bản làng có tên gọi rất đỗi yêu thương-Mai Châu thì các thiếu nữ dân tộc trẻ trung, xinh xắn mang cơm nếp thơm đến cho người lính Tây Tiến."Mai Châu mùa em thơm nếp xôi": Là khung cảnh đậm đà tinh quân dân. Sau một thời gian dài hành quân vất vả giữa núi rừng phải chịu đói, chịu khát. Nay các anh được đồng bảo tiếp đón bằng “cơm lên khỏi" cùng mùi hương “thơm nếp xôi" thật là ẩm bụng. Nỗi nhớ cử thể dịu dàng, chờn vờn trong tâm trí người lính Tây Tiến. Quang Dũng đã dùng từ “mùa em” để thể hiện sự gần gũi, thân thương và nó gắn bỏ như “tình em". Người lính Tây Tiến nhớ những vụ mùa, nhớ “cơm nếp thơm" và nhớ cả những bóng hồng sơn curóc. Cũng nói về hương nếp, hương xôi, về “mùa em” và tinh quân dân, sau này Chế Lan Viên viết trong bài “Tiếng hát con tàu".
Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch Vất xôi nuôi quân em giấu giữa rừng
Đất Tây Bắc thủng ngày không có lịch Bữa xôi đầu còn tỏa nhở mùi hương.
“Nhớ mùi hương”, nhớ “cơm lên khói", nhớ “thơm nếp xôi" là nhớ hương vị núi rừng Tây Bắc, nhớ tỉnh nghĩa, nhớ tẩm lỏng cao cả của đồng bào Tây Bắc thân yêu.
d. Tổng kết nghệ thuật: Đoạn thơ để lại một dấu ấn đẹp đẽ về thơ ca kháng chiến mà sự thành công là kết hợp hài hòa giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Bên cạnh đó còn có các yếu tố nghệ thuật: Sử dụng nhiều từ láy tạo hình, cách sử dụng thanh trắc, điện tử, nhân hóa, đối lập...tất cả đã tạo nên một bài thơ hay và giàu giá trị.
→ Mười bốn câu thơ trên đây là phần đầu bài “Tây Tiển", một trong những bài thơ hay nhất viết về người lính trong chín năm kháng chiến chống Pháp. Bức tranh thiên nhiên hoành tráng, trên đó nổi bật lên hình ảnh chiến sĩ can trưởng và lạc quan, đang dẫn thân vào máu lửa với niềm kiêu hãnh “Chiến trưởng đi chẳng tiếc đời xanh...”. Nửa thế hệ đã trôi qua, bải thơ “Tây Tiến" của Quang Dũng vẫn giữ được giá trị của mình. Xin được mượn bốn câu thơ của Giang Nam thay cho lời kết:
Tây Tiến biên cương mờ lửa khỏi
Quân đi lớp lớp động cây rừng
Và bài thơ ấy, con người ấy Vẫn sống muôn đời với núi sông.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
Bảng tin