

Hãy luôn nhớ cảm ơn và vote 5*
nếu câu trả lời hữu ích nhé!

Đây là câu trả lời đã được xác thực
Câu trả lời được xác thực chứa thông tin chính xác và đáng tin cậy, được xác nhận hoặc trả lời bởi các chuyên gia, giáo viên hàng đầu của chúng tôi.
I. Đọc hiểu
Câu 1: Thể thơ: Tự do
Câu 2: Phương thức biểu đạt chính: Tự sự
Câu 3: Điệp từ "chị".
-> Nhấn mạnh sự xuất hiện cùng tình cảm bao la mà chị dành cho những người chiến sĩ đã nằm xuống.
- Điệp từ "hoa"
-> Nhấn mạnh tình yêu thủy chung, xót thương của nhân vật với người chồng của mình.
Câu 4: Câu trả lời của vợ cho thấy chị là một người thông minh, khéo léo khi ứng xử vô cùng nhanh nhạy. Khi biết mình đặt sai vòng hoa nhưng chị để luôn vòng hoa ấy lại để bày tỏ niềm cung kính với người đã khuất và bày tỏ tấm lòng với chồng.
II. Làm văn
Câu 1:
Trong cuộc sống cần có lối sống tình nghĩa. Tình nghĩa là sự yêu thương, sẻ chia, giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống. Đây là một đạo lý tốt đẹp của dân tộc ta, như người ta có câu "Bán anh em xa, mua láng giềng gần" cho thấy sự nghĩa tình, thủy chung giữa người với người. Ngày xưa lối sống tình nghĩa ấy được thể hiện ở sự chia bùi, sẻ ngọt từng miếng cơm, manh áo. Ngày nay chúng ta cũng bắt gặp rất nhiều về hình ảnh ấy. Đó là sự sẻ chia, giúp đỡ những người gặp khó khăn, hoạn nạn. Như trong đại dịch Covid 19 đã có rất nhà hảo tâm, những việc làm ý nghĩa giúp đỡ mọi người vượt qua khó khăn ấy. Đấy chính là lối sống tình nghĩa mà cả dân tộc ta hướng về. Nhờ sự nghĩa tình giữa người với người mà cuộc sống trở nên tốt đẹp, ý nghĩa hơn bao giờ hết. Con người cũng có niềm tin, động lực để sống tiếp. Bên cạnh những người sống tình nghĩ thì một bộ phận không nhỏ sống ích kỉ, chỉ biết nghĩ cho bản thân,, lợi ích của mình. Những người như vậy cần đáng lên án và phê phán. Mỗi người hãy góp sức mình để sống tình nghĩa, thủy chung để đất nước ngày một phát triển.
Câu 2:
Là một người "suốt đời đi tìm cái đẹp" Nguyễn Tuân đã khắc họa được vẻ đẹp hình tượng người lái đò sông Đà vô cùng tiêu biểu và đặc sắc qua tác phẩm "Người lái đò sống Đà". Với nét vẻ tài hoa của mình, hình tượng ông lái đò hiện ra vô cùng đẹp đẽ, cao cả. Nhất là trong trùng vi thạch trận thứ 2 và 3.
Nếu đoạn văn thứ nhất, Nguyễn Tuân tập trung miêu tả thế trận một chiều từ sông Đà thì ở đoạn văn tiếp theo nhà văn tập trung miêu tả thế trận của ông khách sông Đà ở sự thông minh, linh hoạt và tài nghệ vượt thác dũng mãnh, phi thường. Chuyển từ thế trận phòng ngự, ông lái đò chuyển thế chủ động tấn công. Ở trùng vi thạch trận thứ hai này, sông Đà tăng cường một “tập đoàn cửa tử” và cửa sinh bố trí lệch qua bờ hữu ngạn. So với trùng vi một thì trùng vi này khó khăn hơn. Nhưng không vì thế mà ông đò nao núng. Với kinh nghiệm mười năm chiến trường sông nước, người lái đò đã “nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá, ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá”. Ông đò cũng tự triết lý với mình “cưỡi lên thác sông Đà là cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”, vì thế “không một phút nghỉ tay nghỉ mắt phải phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật”. Ở trận này ông đò đánh phủ đầu với kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh. Như một vận động viên đua ngựa, ông đò “nắm chắc được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái”, ông “phóng nhanh”, “lái miết”… tốc độ di chuyển mau lẹ. Nhưng sông Đà cũng không phải dạng vừa. Chúng xô ra định níu chiếc thuyền vào tập đoàn cửa tử. Ông đò đã cảnh giác sẵn nên “đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo”, “đứa thì đè sấn lên chặt đôi ra để mở đường tiến”. hàng loạt động từ được huy động như một đội quân ngôn ngữ hùng hậu hò reo theo từng nhịp tiến của ông lái đò: nắm, ghì, phóng, lái, tránh, rảo, đè, chặt…Chính nhờ sự mưu trí của mình, ông lái đò đã vượt qua hết các cửa tử. Một trùng vi với bao cửa tử, cửa sinh mà chỉ vài ngón đòn ông lái đò đã đánh sập vòng vây của lũ đá, đồng thời làm cho bọn đá phải thua cuộc với bộ mặt “tiu nghỉu, xanh lè thất vọng”.
Ở trùng vi thứ ba, sông Đà còn một cơ hội cuối để thử thách người lái đò. Trùng vi này ít cửa hơn mà bên trái bên phải đều là luồng chết cả, luồng sống thì lại nằm ngay giữa bọn đá hậu vệ. Có thể nói trận chiến này sông Đà đã dùng thế “trên đe dưới búa” làm cho người lái đò phải đối mặt với thế “tiến thoái lưỡng nan” nhưng vào “cái khó lại ló cái khôn” – ông lái đò đã biến chiếc thuyền sáu bơi chèo thành một mũi tên còn ông giống như một cung thủ đã “phóng thẳng thuyền chọc thủng cửa giữa. Thuyền vút qua cửa đá cánh mở, cánh khép, vút vút, cửa ngoài, cửa trong lại cửa trong cùng. Thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn được. Thế là hết thác”. Một loạt các động từ lại được Nguyễn Tuân huy động để miêu tả cách đánh của ông đò: Phóng, chọc thủng, xuyên qua, xuyên nhanh, lái được, lượn được… sự thần tốc trong cách đánh và cách đánh nhanh thắng nhanh đã giúp người lái đò vượt trùng vi đầy phi thường. Quả là “Đọc Người lái đò sông Đà, ta có ấn tượng rõ rệt về sự tự do của một tài năng, của một đấng hóa công thực sự trong nghệ thuật ngôn từ” (Phan Huy Đông). Nghệ thuật lái thuyền đến đây khiến người đọc hoàn toàn tâm phục, khẩu phục. Đúng là ông lái đò đã đạt đến mức nghệ sĩ trong nghề nghiệp của mình.
Trong nghệ thuật vượt thác leo ghềnh, ông lái đò là một con người phi thường, tài hoa. Một nghệ sĩ có phong thái ung dung, nhàn nhã, khiêm tốn. Ông chính là hình tượng đẹp đẽ của con người lao động Việt Nam. Nguyễn Tuân đích thực là một nghệ sĩ tài hoa bậc thầy trong việc ngợi ca những con người lao động.
Từ đó ta bắt gặp quan niệm nghệ thuật về con người của Nguyễn Tuân: "nghệ thuật vị nhân sinh". Tức là vẻ đẹp bắt nguồn từ con người với những nét đẹp bình dị, đơn sơ nhất.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
Bảng tin