

Hãy luôn nhớ cảm ơn và vote 5*
nếu câu trả lời hữu ích nhé!
1) Bài thơ Cảnh khuya được Bác sáng tác vào những năm tháng đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 - 1954) trong những đêm sống tại núi rừng Việt Bắc để lãnh đạo chiến dịch.
2) Thể thơ: Thất ngôn tứ tuyệt đường luật
Các biện pháp tu từ sử dụng trong đoạn thơ
+ Điệp ngữ: lồng , chưa ngủ
+ So sánh: tiếng suối-tiếng hát, cảnh vật đẹp-bức tranh
3) + Hai câu thơ cuối của bài thơ là cái tình say đắm của Bác trước vẻ đẹp của thiên nhiên. Có thể nói một trong những lí do khiến “người chưa ngủ” ấy chính là vì cảnh thiên nhiên quá đẹp. Hai nét tâm trạng ấy thống nhất hoà hợp trong con người của Bác. Người thao thức chưa ngủ đâu chỉ vì cảnh đẹp đêm trăng mà cơ bản là do người nghĩ cho vận mệnh của dân tộc. Hoặc cũng có thể hiểu: chính vì thao thức tới canh khuya để lo nghĩ việc nước mà Người đã thưởng thức đựơc những cảnh đẹp tuyệt diệu của núi rừng.
4) Bài thơ được ra đời trong hoàn cảnh đất nước đang trong tình trạng nguy hiểm, đối mặt với cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp, nhưng bài thơ của Bác toát tinh thần lạc quan và tư thế ung dung của Bác.
Tên các bài thơ và tác giả đã học và đọc thêm trong sách Ngữ văn 7, tập một - Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam cùng chủ đề với bài thơ này: Rằm tháng giêng
Phần làm văn bạn tự làm nha hoặc có thể lên mạng tham khảo rồi viết
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
![]()
I. Phần đọc hiểu:
1, Hoàn cảnh: trong những năm tháng đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 - 1954). Cuối năm 1947, quân Pháp ồ ạt tấn công lên Việt Bắc, hòng tiêu diệt lực lượng chủ yếu và cơ quan đầu não lãnh đạo cuộc kháng chiến. Chiến dịch Việt Bắc của quân và dân ta đã làm thất bại ý đồ của địch và tiêu diệt nhiều lực lượng của chúng. Bài thơ Cảnh khuya đã được Hồ Chí Minh viết trong những đêm sống tại núi rừng Việt Bắc để lãnh đạo chiến dịch.
2,
* Thể thơ: Thất ngôn tứ tuyệt đường luật
* Biện pháp so sánh:
- so sánh âm thanh của tiếng suối với âm thanh của tiếng hát - tương đồng về đặc điểm âm thanh: hay, thánh thót và văng vẳng mơ hồ từ phía xa vọng lại.
- so sánh khung cảnh đêm khuya như một bức tranh vẽ, có thể hiểu theo hai nghĩa:
+ Khung cảnh chốn rừng núi vào đêm trăng tươi đẹp như một bức tranh.
+ Khung cảnh đêm khuya cùng con người trầm tư, yên lặng, không chuyển động - luôn tĩnh lặng như một bức tranh.
3, Hai chữ “chưa ngủ” là nỗi thao thức, là tâm trạng. “Chưa ngủ” vì “cảnh khuya như vẽ” đã dẫn hồn thi nhân vào cõi mộng say trăng, say thiên nhiên. “Chưa ngủ” còn vì một nỗi sâu xa hơn vì “lo nỗi nước nhà”. Hai câu cuối bài Cảnh khuya đã diễn tả một cách bình dị mà thấm thía tình yêu thiên nhiên thiết tha, tình yêu nước sâu nặng của Bác Hồ
4, Bài thơ phản ánh một tâm hồn thanh cao, một phong thái ung dung tự tại của một nhà thơ chiến sĩ suốt đời hy sinh phấn đấu cho độc lập, tự do của đất nước và hạnh phúc của nhân dân. Cảnh khuya là bài tứ tuyệt kiệt tác mênh mông, bát ngát tình.
5.
Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác của Phan Bội Châu
Muốn làm thằng Cuội của Tản Đà
Hai chữ nước nhà của Á Nam Trần Tuấn Khải.
II. Phần làm văn
1,
Hồ Chủ Tịch - vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc ta - không chỉ là một người hùng, một người chiến sĩ bảo vệ đất nước mà Người còn là một nhà thơ với tâm hồn nghệ sĩ chứa chan cảm xúc, dễ rung động trước cái đẹp. Bài thơ Cảnh khuya được Bác viết trong thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ của dân tộc ta, giữa hoàn cảnh khốn khó đầy gian nan thử thách, Bác vẫn thể hiện tinh thần ung dung, tự tại và cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên nơi núi rừng Tây Bắc hoang sơ, hùng vĩ.
Bài thơ chỉ có bốn câu, hai câu thơ đầu là khung cảnh thiên nhiên trong đêm khuya thanh vắng được nhìn dưới con mắt đầy nghệ thuật của Bác Hồ:
"Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa"
Trong đêm khuya nơi núi rừng hoang sơ, hẻo lánh, tất cả mọi vật đều chìm trong tĩnh lặng, Bác chỉ còn nghe thấy âm thanh của tiếng suối róc rách. Dù chỉ có duy nhất một sự vật chuyển động trong bức tranh yên tĩnh ấy, Người vẫn có thể khiến cho nó trở nên thật có hồn. Tiếng suối được so sánh "trong như tiếng hát" làm gợi lên một thứ âm thanh nhẹ nhàng, êm dịu, trong vắt khiến cho con người không khỏi ngạc nhiên, như chìm vào tiếng hát trữ tình ấy. Sự vật thứ hai được Hồ Chủ Tịch miêu tả trong đêm khuya đó chính là ánh trăng. Ánh trăng vốn không phải là hình ảnh xa lạ trong thơ ca. Nhà thơ Nguyễn Duy đã dành cả một bài thơ để nói về ánh trăng:
"Trần trụi với thiên nhiên
Hồn nhiên như cây cỏ
Ngỡ không bao giờ quên
Cái vầng trăng tình nghĩa"
Nếu trong thơ của Nguyễn Du, vầng trăng xuất hiện với vẻ "trần trụi", không dấu giếm con người bất cứ điều gì thì đối với Bác, ánh trăng trong đêm khuya được miêu tả thật đẹp "Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa". Hình ảnh thợ gợi liên tưởng thật thú vị, ánh trăng chiếu xuống những tán cây cổ thụ, lồng vào bóng cây, tràn vào hoa. Bức tranh thiên nhiên được miêu tả thật nên thơ, khiến cho người đọc cũng thấy động lòng trước vẻ đẹp của tự nhiên. Đặc biệt, bác Hồ còn coi trăng là người bạn tri kỉ của mình, cho nên Người khó có thể thờ ơ trước vẻ đẹp của trăng.
Nếu hai câu thơ trước chỉ đơn thuần là tả cảnh thì ở hai câu thơ sau, Bác đã khéo léo đưa vào đó tâm trạng của mình:
"Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì nỗi lo nước nhà"
Đứng trước cảnh đẹp của thiên nhiên, Bác phải thốt lên rằng đây là một cảnh đẹp hiếm có, đẹp như trong tranh vẽ. Và đây cũng chính là nguyên nhân khiến cho người thi sĩ vẫn chưa ngủ được. Người thao thức vì thiên nhiên đẹp quá, thơ mộng quá. Nhưng vẫn còn một lí do nữa mà Bác vẫn chưa ngủ được. Đó là nỗi lo gánh vác dân tộc, trách nhiệm đưa đất nước thoát khỏi ách thống trị của thực dân, giải phóng dân tộc. Ta có thể hiểu tại sao nỗi lo trong Người lại lớn đến như vậy, vì Bác đang gánh trên vai một trách nhiệm rất lớn, cả dân tộc đều đang trông đợi vào Người. Hai câu thơ cuối cho thấy nỗi niềm canh cánh đối với đất nước của Bác Hồ, dù thiên nhiên có đẹp đến thế nào, có khiến lòng người xao xuyến ra sao thì Bác vẫn không quên nhiệm vụ của mình đối với đất nước. Có chăng Bác vẫn luôn tự hỏi, rằng bao giờ con dân Việt Nam mới có thể thưởng thức vẻ đẹp của thiên nhiên, của cuộc sống mà không phải lo lắng về sự áp bức, bóc lột của chiến tranh khốc liệt, về nền hòa bình chưa có?
Có thể nói, bài thơ là một bức tranh thiên nhiên hòa hợp giữa cảnh và tình, giữa con người và sự vật. Qua đó, ta hiểu thêm về tâm hồn thơ mộng của Bác cùng với nỗi niềm với quê hương, đất nước sâu sắc của Người.
2,
Sau chiến thắng Việt Bắc thu đông 1947, bước sang hè 1948 quân ta lại liên tục thắng lớn trước thực dân Pháp. Trong hoàn cảnh đó bài thơ xuất hiện trên báo “Cứu quốc” như truyền thêm cho quân và dân ta tình yêu thương vô bờ đối với quê hương đất nước, đồng thời cho ta thấy được tấm lòng luôn canh cánh vì nước vì dân của Bác Hồ.
“Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,
Xuân giang, xuân thuỷ tiếp xuân thiên;
Yên ba thâm xứ đàm quân sự,
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.”
Mở đầu bài thơ là một không gian bao la rộng lớn:
“Rằm xuân lồng lộng trăng soi,”
Ánh trăng đêm xuân an lành lồng lộng. Từ “lồng lộng” được đảo lên trên cho ta thấy cái rộng lớn bao la của cảnh sắc đêm xuân. Hình ảnh ánh trăng thường được sử dụng trong thơ Bác như một người bạn tri âm tri kỉ. Ở đây, ngay trong đêm Rằm vẫn luôn dõi theo, bầu bạn với Bác.
“Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân;”
Câu thơ cho ta thấy cảnh sắc thiên nhiên tuyệt đẹp. Hai từ “xuân” lặp lại nối tiếp nhau mở ra cho ta một không gian rợn ngợp tràn đầy sắc xuân, tràn đầy sức sống. Sông, nước, ánh trăng như nối liền nhau, giao hòa với nhau giữa vẻ đẹp của đất trời.
Câu thơ “Giữa dòng bàn bạc việc quân” cho thấy tấm lòng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người luôn đau đáu tấm lòng vì nước vì dân. Công việc bộn bề nhưng Bác vẫn luôn yêu thiên nhiên cảnh vật. Điều đó cho ta thấy tư thế ung dung lạc quan yêu đời của người chiến sĩ cách mạng.
Câu thơ cuối cùng: “Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền” gợi ra hình ảnh con thuyền là ẩn dụ sâu sắc về thắng lợi của cách mạng. Con thuyền cách mạng rực rỡ ánh trăng ngân báo hiệu cho ngày chiến thắng không còn cách xa. Câu thơ thể hiện một niềm lạc quan, niềm tin vô cùng với cách mạng.
Bài thơ “Rằm tháng Giêng” là một bài thơ độc đáo của Bác Hồ. Bài thơ vừa thể hiện tình yêu thiên nhiên vô cùng của Bác đồng thời cũng nói lên tinh thần lạc quan giữa hoàn cảnh chiến tranh khắc nghiệt.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
![]()
1. Bài thơ được sáng tác trong bối cảnh đất nước đang trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, khi tình hình lâm nguy nhưng lòng người cách mạng vẫn tràn đầy niềm tin, hy vọng vào ngày mai tươi sáng.
2. Bài thơ “Cảnh khuya” được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt đường luật. Biện pháp tu từ chủ yếu mà tác giả sử dụng là ẩn dụ và nhân hóa. Qua đó, Hồ Chí Minh đã khéo léo vẽ nên bức tranh đêm tĩnh mịch nhưng lại ẩn chứa tâm tư, niềm khao khát tự do và khát vọng chiến đấu mãnh liệt của con người cách mạng.
3. Hai câu thơ cuối thể hiện tâm trạng quyết tâm, kiên cường và tràn đầy niềm tin vào tương lai. Dù đang sống trong cảnh đêm tối của chiến tranh, tác giả vẫn giữ vững niềm tin rằng sáng mai đất nước sẽ rạng ngời, ánh sáng của tự do và hạnh phúc sẽ sớm lan tỏa khắp mọi nơi.
4. Qua “Cảnh khuya”, ta cảm nhận được tâm hồn cao thượng, trầm tư và kiên cường của Bác Hồ. Phong thái của Người vừa giản dị, gần gũi lại vô cùng lạc quan, luôn thấm đẫm lòng yêu nước và niềm tin vào tương lai của dân tộc. Bác Hồ không chỉ là nhà lãnh đạo vĩ đại mà còn là người nghệ sĩ tâm hồn, luôn cảm nhận sâu sắc vẻ đẹp của thiên nhiên và sự sống.
Các bài thơ cùng chủ đề trong sách Ngữ văn 7, tập một mà các em đã học và đọc thêm gồm có:
- “Rằm tháng giêng” của Chủ tịch Hồ Chí Minh
- (Ngoài ra, nếu có, các em có thể kể thêm bài “Trăng” của Huy Cận – tùy theo danh mục của sách giáo khoa.)
II. PHẦN LÀM VĂN
Câu 1:
"Những tâm hồn mạnh mẽ nhất đều được nuôi dưỡng từ những vật lộn khó khăn. Những nhân cách lớn lao nhất đều hàn gắn lại bản thân mình từ hàng ngàn những vết sẹo." - Khalil Gibran. "Nhà văn" cao quý khi trái tim đớn đau trước trước tiếng rên rỉ, nức nở của một số phận; và rung rinh trước khi nhìn thấy vẻ tinh khôi của bông hồng buổi sớm đẫm sương đêm. Có thể nói, nhà văn phải gửi gắm được vào trong tác phẩm của mình một cái tâm tận thiện, tận mĩ. Mỗi phút giây rung động trong tâm hồn là một lần ta sống thật với lòng mình, sống với tất cả bản chất người của mình. Con người hiện lên hoàn toàn nhất trong nội tâm và cảm xúc. Trong thơ Bác Hồ, hình ảnh trăng dưới đôi mắt của người nghệ sĩ ẩn chứa những thông điệp sâu sắc về tinh thần yêu nước, nghị lực chiến đấu và niềm tin vào ngày mai tươi sáng.
Trăng trong thơ của Bác Hồ hiện lên với vẻ đẹp dịu dàng nhưng kiên cường, như ánh sáng le lói giữa màn đêm u tối của chiến tranh. Dù cuộc sống đầy rẫy những khó khăn, gian khổ, trăng vẫn luôn soi rọi, như nhắc nhở con người rằng ngay trong những khoảnh khắc đen tối nhất cũng có tia hy vọng. Qua hình ảnh trăng, Bác Hồ gửi gắm niềm tin vào sức sống mãnh liệt của dân tộc, vào khát vọng tự do và hạnh phúc của nhân dân Việt Nam. Hình ảnh trăng còn mang ý nghĩa của sự kết nối giữa quá khứ, hiện tại và tương lai. Trăng không chỉ là chứng nhân của bao biến cố lịch sử, mà còn là biểu tượng của sự trường tồn, bất diệt. Trong thơ, ánh trăng như thấu hiểu nỗi lòng của người cách mạng, như chia sẻ những giọt nước mắt lặng lẽ và cả những niềm vui nho nhỏ khi chiến đấu cho lý tưởng. Qua đó, Bác Hồ đã khắc họa một hình ảnh trăng vừa mộc mạc, vừa huyền ảo, vừa mang đậm tính nhân văn, góp phần làm nổi bật tinh thần lạc quan và nghị lực vươn lên của con người Việt Nam. Sự kết hợp giữa vẻ đẹp thiên nhiên và nội tâm phong phú của Bác đã khiến hình ảnh trăng trở nên sống động, không chỉ là một cảnh tượng mà còn là nguồn động viên tinh thần, là niềm cảm hứng bất tận cho các thế hệ. Nhìn trăng, người đọc như được sống lại những khoảnh khắc trầm tư, cảm nhận sâu sắc lòng yêu nước và khát vọng sống mãnh liệt. Chính điều đó đã làm nên sức mạnh tinh thần vượt lên trên mọi thử thách của dân tộc Việt Nam.
Từ hình ảnh trăng, ta thấy được một Bác Hồ giản dị, gần gũi nhưng cũng tràn đầy nghị lực, luôn hướng về tương lai với niềm tin vững chắc. Hình ảnh ấy là minh chứng cho sự kiên trì và lòng lạc quan, là lời nhắc nhở rằng, dù có gặp bao khó khăn, chỉ cần giữ vững niềm tin và ý chí, ánh sáng của tự do và hạnh phúc cuối cùng sẽ được thắp lên trong mỗi con người.
Câu 2:
Trong hai câu thơ đầu của “Rằm tháng giêng”, thiên nhiên bừng lên vẻ đẹp dịu dàng, huyền ảo như một bức tranh thủy mặc mờ ảo giữa đêm khuya. Ánh trăng rằm tỏa sáng lấp lánh trên bầu trời, tựa như dải lụa mỏng manh, nhẹ nhàng vắt ngang qua không gian mênh mông, tạo nên một khung cảnh thơ mộng tràn đầy cảm hứng. Ánh trăng ấy không chỉ chiếu sáng bầu không khí mà còn như thổi vào lòng người cảm giác mát lành, xua tan những mệt mỏi của cuộc sống thường nhật. Sự giao hòa giữa ánh sáng và bóng tối trong cảnh đêm ấy gợi mở những ký ức êm đềm, những hồi ức của thời thơ ấu, đồng thời khơi gợi những ước mơ chưa thành, những khát vọng thầm kín luôn cháy bỏng trong tim người. Vẻ đẹp của thiên nhiên như lời thì thầm dịu dàng của chính tự nhiên, mời gọi con người dừng lại, lắng nghe và cảm nhận những phút giây tĩnh lặng, quý giá mà cuộc sống hiện đại hiếm khi cho phép. Mỗi ánh sáng lung linh của trăng, mỗi nét bóng đêm mờ ảo đều mang theo sức sống, như một lời nhắc nhở nhẹ nhàng rằng, dù bão giông cuộc đời có làm ta mệt mỏi đến đâu, niềm tin vào ngày mai luôn rạng ngời như ánh trăng giữa đêm tối. Hình ảnh trăng rằm không chỉ là một biểu tượng của sự bình yên, mà còn là niềm hy vọng, sự tái sinh của cuộc sống, như lời hứa hẹn về một ngày mới tràn đầy sức sống và niềm vui. Cảm giác được hòa mình vào vẻ đẹp ấy khiến người ta như lạc vào một không gian vượt ra ngoài giới hạn của thời gian, nơi tâm hồn được tự do bay bổng, tìm lại sự thanh thản giữa những nhịp sống hối hả. Qua đó, bài thơ đã khắc họa cảnh sắc thiên nhiên tuyệt đẹp, qua đó truyền tải thông điệp sâu sắc về giá trị của những khoảnh khắc tĩnh lặng, nơi mà con người có thể tìm thấy niềm an ủi, sức sống và khát vọng vượt qua mọi thử thách.
Bảng tin