

Hãy luôn nhớ cảm ơn và vote 5*
nếu câu trả lời hữu ích nhé!
TCCS - Ngày 17-7-1995, Việt Nam và Liên minh châu Âu (EU) đã ký kết Hiệp định khung về hợp tác (FCA). Đây là văn bản pháp lý quan trọng đầu tiên đặt nền móng cho quan hệ Việt Nam - EU phát triển ngày càng mạnh mẽ. Nhân dịp kỷ niệm 25 năm FCA ra đời (1995 - 2020), việc nhìn lại các dấu mốc chính trong quan hệ Việt Nam - EU suốt gần ba thập niên qua để rút ra những bài học, nhận xét, đánh giá có ý nghĩa cho tranh thủ cơ hội, vượt lên thách thức, thúc đẩy quan hệ song phương, đa phương thời gian tới.
Ngày 22-10-1990, Việt Nam và Cộng đồng châu Âu (EC) chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao. Đây là kết quả của một quá trình vận động từ cả hai phía trước những biến động sâu sắc của tình hình thế giới và khu vực. Thập niên 80 của thế kỷ XX đầy biến động tạo tiền đề kết thúc Chiến tranh lạnh đã khiến tất cả các quốc gia phải định hướng lại những ưu tiên đối ngoại của mình. Tháng 2-1986, EC đã ký Đạo luật châu Âu thống nhất (SEA), đặt mục tiêu đưa EC trở thành một thị trường chung duy nhất và thiết lập Hợp tác chính trị châu Âu(1) là nền tảng cho sự ra đời của EU theo Hiệp ước Ma-xtrích năm 1992. Về phía Việt Nam, Đại hội VI của Đảng (tháng 12-1986) cũng đã tạo ra một bước ngoặt đổi mới cho đất nước trên tất cả các lĩnh vực, trong đó chính sách đối ngoại mới “mở rộng quan hệ với tất cả các nước trên nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình” đã dần thay đổi hình ảnh về Việt Nam với cộng đồng quốc tế. Có thể nói, EC là một trong những đối tác tiên phong trong việc ghi nhận những động thái thay đổi của Việt Nam. Ngay sau khi Việt Nam rút quân khỏi Cam-pu-chia (năm 1989) và thậm chí khi Mỹ còn chưa thực sự bình thường hóa quan hệ với Việt Nam, EC đã quyết định thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Mặc dù, trước đó Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao song phương với 22/27 nước thành viên của EU hiện nay, song việc thiết lập quan hệ với EC là một chủ thể đặc biệt với các nước thành viên Tây Âu là một sự kiện có tính then chốt đối với công cuộc đổi mới của Việt Nam.
Các hoạt động hợp tác song phương giữa EC và Việt Nam trong những năm đầu tiên thiết lập quan hệ ngoại giao được khởi đầu từ một vấn đề nhân đạo. Đó là Chương trình quốc tế của EC (European Community International Programme - ECIP) do EC phối hợp với Cao ủy Liên hợp quốc về người tị nạn, hỗ trợ cho người Việt Nam hồi hương và tái hòa nhập cộng đồng. Kết quả của chương trình này có ý nghĩa quan trọng đối với quan hệ Việt Nam - EC nói chung khi mở ra cánh cửa hợp tác trong các lĩnh vực khác(2), và đối với Việt Nam nói riêng, khi thông qua đó, cộng đồng quốc tế thấy được sự nghiêm túc, độ tin cậy của Việt Nam trong các cam kết quốc tế với châu Âu cũng như thế giới.
Tháng 7-1995 đã đi vào lịch sử của nền ngoại giao Việt Nam với ba dấu mốc quan trọng có tính chất bước ngoặt(3). Trong đó, ngày 17-7-1995, Việt Nam và EU ký kết FCA(4). Có thể nói, đây là dấu mốc quan trọng thiết lập cơ sở pháp lý cho việc xây dựng quan hệ giữa hai bên, mở rộng quan hệ đối tác ngoài phạm vi hợp tác nhân đạo ban đầu. Ngay sau đó, tháng 9-1995, Phó Chủ tịch Ủy ban châu Âu Ma-nu-en Ma-rin đã đến thăm Việt Nam và nhất trí thành lập một phái đoàn ngoại giao thường trực tại Thủ đô Hà Nội. Như vậy, EU với tư cách là một chủ thể thống nhất, cùng với việc ký kết FCA và đặt cơ quan đại diện ngoại giao tại Việt Nam (năm 1996), đã xác nhận và khẳng định quan hệ ngoại giao chính thức và đầy đủ với Việt Nam. Không chỉ vậy, FCA cũng là hiệp định có tính tiên phong vì quá trình đàm phán hiệp định đã diễn ra trước cả khi Mỹ dỡ bỏ lệnh cấm vận và khôi phục quan hệ ngoại giao với Việt Nam, do đó ít nhiều đã tác động đến Mỹ và các đối tác khác tiến tới bình thường hóa quan hệ với Việt Nam.
Kể từ khi hai bên ký kết FCA đến nay, quan hệ Việt Nam - EU đã có những bước tiến vượt bậc. Quan hệ Việt Nam - EU bắt đầu mở rộng và tiếp cận cả những lĩnh vực vốn được coi là “nhạy cảm”. Năm 2003, Việt Nam và EU đã chính thức tiến hành đối thoại về vấn đề quyền con người. Năm 2004, Hội nghị cấp cao Việt Nam - EU lần thứ nhất đã được tổ chức tại Thủ đô Hà Nội. Năm 2008, hai bên chính thức khởi động đàm phán Hiệp định Đối tác và Hợp tác toàn diện Việt Nam - EU (PCA) và đến năm 2010, PCA đã được hai bên tiến hành ký tắt.
Nếu giai đoạn 2000 - 2010, hợp tác giữa Việt Nam và EU bắt đầu đi vào chiều sâu, việc PCA chính thức được ký kết vào ngày 27-6-2012 đã tạo nên một bước đột phá mới trong quan hệ giữa hai bên. PCA đã trở thành nền tảng pháp lý thay thế FCA, thể hiện cam kết của EU trong việc tiến tới mối quan hệ hiện đại, trên diện rộng và cùng có lợi với Việt Nam. PCA mở rộng phạm vi hợp tác Việt Nam - EU vượt qua lĩnh vực thương mại và hợp tác kinh tế, sang cả những lĩnh vực khác, như môi trường, năng lượng, công nghệ, quản trị công hiệu quả, du lịch, văn hóa, di cư, an ninh, chống tham nhũng và tội phạm có tổ chức. Có thể nói, sau Hiệp ước Li-xbon (năm 2009) và PCA, quan hệ chính trị giữa hai bên được tăng cường, thể hiện bằng tần suất và cấp độ của các cuộc tiếp xúc cao hơn, như chuyến thăm EU của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng (năm 2013), Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng (năm 2015), Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc (năm 2019)... Về phía EU thăm Việt Nam có: Chủ tịch Hội đồng châu Âu Hơ-man Van Rôm-pơi (năm 2012), Đại diện cấp cao về đối ngoại và an ninh của EU Ca-tơ-rin Át-xtơn (năm 2014), Chủ tịch Ủy ban châu Âu Giô-giê Man-nu-en Ba-rô-sô (năm 2007 và năm 2014)...
Ý tưởng về ký kết Hiệp định Thương mại tự do (FTA) giữa EU và Việt Nam đã được Ủy viên Thương mại EU Ca-ren đơ Gút đề xuất trong cuộc gặp với Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng từ tháng 6-2010. Chỉ 4 tháng sau, hai bên đã nhất trí khởi động đàm phán FTA Việt Nam - EU (EVFTA). Tiến trình đàm phán EVFTA đã bắt đầu từ tháng 6-2012 và kết thúc vào tháng 12-2015. Tháng 6-2018, hai bên đã nhất trí tách phần đầu tư ra thành Hiệp định Bảo hộ đầu tư (IPA). Ngày 30-6-2018, EU và Việt Nam đã chính thức ký kết EVFTA và IPA. Hai năm sau, EVFTA được Hội đồng châu Âu thông qua vào ngày 30-3-2020 và phía Việt Nam phê chuẩn vào ngày 8-6-2020. Ngày 1-8-2020, EVFTA chính thức có hiệu lực.
.
Hai mươi lăm năm sau khi FCA ra đời, quan hệ Việt Nam - EU đã phát triển không chỉ về bề rộng mà còn cả chiều sâu mà IPA và EVFTA là minh chứng rõ nét. Việc ký kết thành công hiệp định này đánh dấu một mốc mới trên chặng đường hợp tác và phát triển giữa Việt Nam và EU, đặc biệt là trong bối cảnh tình hình kinh tế, chính trị thế giới đang có nhiều diễn biến phức tạp và khó đoán định. Có thể coi đây là một thông điệp tích cực về quyết tâm phát triển mối quan hệ hai bên của cả Việt Nam và EU.
Quan hệ Việt Nam - EU trong thời gian tới có xu hướng thuận lợi nhiều hơn thách thức do cả hai bên đều có nhu cầu thúc đẩy quan hệ song phương này. Đặc biệt sau Hiệp ước Li-xbon, EU muốn tăng cường mạnh mẽ hơn nữa vị thế trên trường quốc tế, trong đó có việc đẩy mạnh quan hệ với châu Á. Việt Nam là đối tác hàng đầu của EU ở khu vực Đông Nam Á. Việc phát triển quan hệ với một đối tác đặc biệt gồm 27 thành viên như EU không chỉ phù hợp với chính sách đối ngoại đa phương của Việt Nam mà còn giúp Việt Nam cân bằng quan hệ với các nước lớn. Mối quan hệ này còn được củng cố bằng các mối quan hệ song phương, đối tác chiến lược, đối tác toàn diện giữa Việt Nam và các nước thành viên chủ chốt của EU, như Đức, Pháp, I-ta-li-a, Tây Ban Nha, Đan Mạch, Hà Lan,... tạo nên sự đan xen lợi ích và chiến lược cho tất cả các bên.
Với EVFTA và IPA, quan hệ thương mại đã trở thành trụ cột trong phát triển quan hệ giữa hai bên. Việc triển khai hai hiệp định này sẽ mở rộng thị trường cho các ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam (dệt may, giầy dép, hàng nông sản...), cũng là cơ hội tiếp cận với các thiết bị, công nghệ, kỹ thuật cao của EU, đồng thời có điều kiện để hoàn thiện hơn nữa thể chế, chính sách, pháp luật theo hướng minh bạch, phù hợp hơn với thông lệ quốc tế.
Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi, cũng có những khó khăn nhất định trong quan hệ kinh tế. Ví dụ như, sự khắt khe của thị trường EU với nhiều tiêu chuẩn mới, đòi hỏi cao hơn về kỹ thuật, môi trường, vệ sinh an toàn, bảo vệ quyền người lao động,... cùng với chính sách bảo hộ nông nghiệp... Hay việc EU tập trung vực dậy thị trường nội khối, thắt chặt chi tiêu và hạn chế đầu tư ra bên ngoài... sẽ có những tác động nhất định đến việc thu hút dòng đầu tư chất lượng cao của Việt Nam. Mặc dù hợp tác phát triển giữa Việt Nam và EU đến nay về cơ bản là ổn định, nhưng sau năm 2020, EU có thể điều chỉnh chính sách hợp tác phát triển với Việt Nam, lồng ghép nhiều hơn nữa các điều kiện tiếp nhận viện trợ phát triển chính thức, điều chỉnh nhóm nước ưu tiên sang khu vực các nước Bắc Phi... Thêm vào đó, do Việt Nam đã vượt lên nằm trong nhóm nước có thu nhập trung bình nên chính sách của EU sẽ hướng đến các lĩnh vực phát triển khác, như biến đổi khí hậu, phát triển năng lượng bền vững, tăng cường thể chế...
Về an ninh - chính trị, sự hiện diện của EU tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương không rõ ràng và mạnh mẽ như ở lĩnh vực kinh tế. Chính vì vậy, tiếng nói của EU trong các vấn đề xung đột hiện nay chưa có nhiều tác động sâu sắc. Việt Nam cần xác định rõ tầm ảnh hưởng của EU trong các vấn đề này để từ đó có thể tận dụng vị thế “trung gian” và quan điểm ủng hộ hòa bình và luật pháp quốc tế của EU.
Quan hệ Việt Nam - EU trong thời gian tới cũng phụ thuộc vào sự phát triển của EU. Chính vì vậy, những khó khăn gần đây trong nội khối EU, như khủng hoảng về di cư, xu thế dân túy, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, việc nước Anh rời EU (Brexit),... cũng có những tác động nhất định đến việc thúc đẩy quan hệ giữa hai bên. Nếu EU tiếp tục phát triển theo hướng nhất thể hóa, trở thành một chủ thể thống nhất trên tất cả các lĩnh vực, có tiếng nói trọng lượng hơn trên trường quốc tế... sẽ góp phần mạnh mẽ vào việc thúc đẩy chủ nghĩa đa phương, hòa bình và ổn định ở châu Âu cũng như trên thế giới. Một điều thấy rõ rằng, Việt Nam sẽ là một trong những đối tác được “hưởng lợi” từ sự lớn mạnh của EU.
Kể từ thời điểm ký kết FCA đến nay, quan hệ Việt Nam - EU đã chuyển từ quan hệ mang tính bị động, một chiều giữa “nước nhận viện trợ và nhà tài trợ” thành quan hệ đối tác bình đẳng, hợp tác toàn diện, phát triển bền vững... và ngày càng đi vào chiều sâu. Trên cơ sở những lợi ích song trùng, việc củng cố, tăng cường quan hệ Việt Nam - EU bình đẳng, đôi bên cùng có lợi là nhu cầu chiến lược của cả hai bên, do đó, quan hệ hợp tác Việt Nam - EU sẽ ngày càng phát triển theo chiều sâu và hiệu quả hơn nữa.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?

TCCS - Ngày 17-7-1995, Việt Nam và Liên minh châu Âu (EU) đã ký kết Hiệp định khung về hợp tác (FCA). Đây là văn bản pháp lý quan trọng đầu tiên đặt nền móng cho quan hệ Việt Nam - EU phát triển ngày càng mạnh mẽ. Nhân dịp kỷ niệm 25 năm FCA ra đời (1995 - 2020), việc nhìn lại các dấu mốc chính trong quan hệ Việt Nam - EU suốt gần ba thập niên qua để rút ra những bài học, nhận xét, đánh giá có ý nghĩa cho tranh thủ cơ hội, vượt lên thách thức, thúc đẩy quan hệ song phương, đa phương thời gian tới.
Ngày 22-10-1990, Việt Nam và Cộng đồng châu Âu (EC) chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao. Đây là kết quả của một quá trình vận động từ cả hai phía trước những biến động sâu sắc của tình hình thế giới và khu vực. Thập niên 80 của thế kỷ XX đầy biến động tạo tiền đề kết thúc Chiến tranh lạnh đã khiến tất cả các quốc gia phải định hướng lại những ưu tiên đối ngoại của mình. Tháng 2-1986, EC đã ký Đạo luật châu Âu thống nhất (SEA), đặt mục tiêu đưa EC trở thành một thị trường chung duy nhất và thiết lập Hợp tác chính trị châu Âu(1) là nền tảng cho sự ra đời của EU theo Hiệp ước Ma-xtrích năm 1992. Về phía Việt Nam, Đại hội VI của Đảng (tháng 12-1986) cũng đã tạo ra một bước ngoặt đổi mới cho đất nước trên tất cả các lĩnh vực, trong đó chính sách đối ngoại mới “mở rộng quan hệ với tất cả các nước trên nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình” đã dần thay đổi hình ảnh về Việt Nam với cộng đồng quốc tế. Có thể nói, EC là một trong những đối tác tiên phong trong việc ghi nhận những động thái thay đổi của Việt Nam. Ngay sau khi Việt Nam rút quân khỏi Cam-pu-chia (năm 1989) và thậm chí khi Mỹ còn chưa thực sự bình thường hóa quan hệ với Việt Nam, EC đã quyết định thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Mặc dù, trước đó Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao song phương với 22/27 nước thành viên của EU hiện nay, song việc thiết lập quan hệ với EC là một chủ thể đặc biệt với các nước thành viên Tây Âu là một sự kiện có tính then chốt đối với công cuộc đổi mới của Việt Nam.
Các hoạt động hợp tác song phương giữa EC và Việt Nam trong những năm đầu tiên thiết lập quan hệ ngoại giao được khởi đầu từ một vấn đề nhân đạo. Đó là Chương trình quốc tế của EC (European Community International Programme - ECIP) do EC phối hợp với Cao ủy Liên hợp quốc về người tị nạn, hỗ trợ cho người Việt Nam hồi hương và tái hòa nhập cộng đồng. Kết quả của chương trình này có ý nghĩa quan trọng đối với quan hệ Việt Nam - EC nói chung khi mở ra cánh cửa hợp tác trong các lĩnh vực khác(2), và đối với Việt Nam nói riêng, khi thông qua đó, cộng đồng quốc tế thấy được sự nghiêm túc, độ tin cậy của Việt Nam trong các cam kết quốc tế với châu Âu cũng như thế giới.
Tháng 7-1995 đã đi vào lịch sử của nền ngoại giao Việt Nam với ba dấu mốc quan trọng có tính chất bước ngoặt(3). Trong đó, ngày 17-7-1995, Việt Nam và EU ký kết FCA(4). Có thể nói, đây là dấu mốc quan trọng thiết lập cơ sở pháp lý cho việc xây dựng quan hệ giữa hai bên, mở rộng quan hệ đối tác ngoài phạm vi hợp tác nhân đạo ban đầu. Ngay sau đó, tháng 9-1995, Phó Chủ tịch Ủy ban châu Âu Ma-nu-en Ma-rin đã đến thăm Việt Nam và nhất trí thành lập một phái đoàn ngoại giao thường trực tại Thủ đô Hà Nội. Như vậy, EU với tư cách là một chủ thể thống nhất, cùng với việc ký kết FCA và đặt cơ quan đại diện ngoại giao tại Việt Nam (năm 1996), đã xác nhận và khẳng định quan hệ ngoại giao chính thức và đầy đủ với Việt Nam. Không chỉ vậy, FCA cũng là hiệp định có tính tiên phong vì quá trình đàm phán hiệp định đã diễn ra trước cả khi Mỹ dỡ bỏ lệnh cấm vận và khôi phục quan hệ ngoại giao với Việt Nam, do đó ít nhiều đã tác động đến Mỹ và các đối tác khác tiến tới bình thường hóa quan hệ với Việt Nam.
Kể từ khi hai bên ký kết FCA đến nay, quan hệ Việt Nam - EU đã có những bước tiến vượt bậc. Quan hệ Việt Nam - EU bắt đầu mở rộng và tiếp cận cả những lĩnh vực vốn được coi là “nhạy cảm”. Năm 2003, Việt Nam và EU đã chính thức tiến hành đối thoại về vấn đề quyền con người. Năm 2004, Hội nghị cấp cao Việt Nam - EU lần thứ nhất đã được tổ chức tại Thủ đô Hà Nội. Năm 2008, hai bên chính thức khởi động đàm phán Hiệp định Đối tác và Hợp tác toàn diện Việt Nam - EU (PCA) và đến năm 2010, PCA đã được hai bên tiến hành ký tắt.
Nếu giai đoạn 2000 - 2010, hợp tác giữa Việt Nam và EU bắt đầu đi vào chiều sâu, việc PCA chính thức được ký kết vào ngày 27-6-2012 đã tạo nên một bước đột phá mới trong quan hệ giữa hai bên. PCA đã trở thành nền tảng pháp lý thay thế FCA, thể hiện cam kết của EU trong việc tiến tới mối quan hệ hiện đại, trên diện rộng và cùng có lợi với Việt Nam. PCA mở rộng phạm vi hợp tác Việt Nam - EU vượt qua lĩnh vực thương mại và hợp tác kinh tế, sang cả những lĩnh vực khác, như môi trường, năng lượng, công nghệ, quản trị công hiệu quả, du lịch, văn hóa, di cư, an ninh, chống tham nhũng và tội phạm có tổ chức. Có thể nói, sau Hiệp ước Li-xbon (năm 2009) và PCA, quan hệ chính trị giữa hai bên được tăng cường, thể hiện bằng tần suất và cấp độ của các cuộc tiếp xúc cao hơn, như chuyến thăm EU của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng (năm 2013), Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng (năm 2015), Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc (năm 2019)... Về phía EU thăm Việt Nam có: Chủ tịch Hội đồng châu Âu Hơ-man Van Rôm-pơi (năm 2012), Đại diện cấp cao về đối ngoại và an ninh của EU Ca-tơ-rin Át-xtơn (năm 2014), Chủ tịch Ủy ban châu Âu Giô-giê Man-nu-en Ba-rô-sô (năm 2007 và năm 2014)...
Ý tưởng về ký kết Hiệp định Thương mại tự do (FTA) giữa EU và Việt Nam đã được Ủy viên Thương mại EU Ca-ren đơ Gút đề xuất trong cuộc gặp với Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng từ tháng 6-2010. Chỉ 4 tháng sau, hai bên đã nhất trí khởi động đàm phán FTA Việt Nam - EU (EVFTA). Tiến trình đàm phán EVFTA đã bắt đầu từ tháng 6-2012 và kết thúc vào tháng 12-2015. Tháng 6-2018, hai bên đã nhất trí tách phần đầu tư ra thành Hiệp định Bảo hộ đầu tư (IPA). Ngày 30-6-2018, EU và Việt Nam đã chính thức ký kết EVFTA và IPA. Hai năm sau, EVFTA được Hội đồng châu Âu thông qua vào ngày 30-3-2020 và phía Việt Nam phê chuẩn vào ngày 8-6-2020. Ngày 1-8-2020, EVFTA chính thức có hiệu lực.
.
Hai mươi lăm năm sau khi FCA ra đời, quan hệ Việt Nam - EU đã phát triển không chỉ về bề rộng mà còn cả chiều sâu mà IPA và EVFTA là minh chứng rõ nét. Việc ký kết thành công hiệp định này đánh dấu một mốc mới trên chặng đường hợp tác và phát triển giữa Việt Nam và EU, đặc biệt là trong bối cảnh tình hình kinh tế, chính trị thế giới đang có nhiều diễn biến phức tạp và khó đoán định. Có thể coi đây là một thông điệp tích cực về quyết tâm phát triển mối quan hệ hai bên của cả Việt Nam và EU.
Quan hệ Việt Nam - EU trong thời gian tới có xu hướng thuận lợi nhiều hơn thách thức do cả hai bên đều có nhu cầu thúc đẩy quan hệ song phương này. Đặc biệt sau Hiệp ước Li-xbon, EU muốn tăng cường mạnh mẽ hơn nữa vị thế trên trường quốc tế, trong đó có việc đẩy mạnh quan hệ với châu Á. Việt Nam là đối tác hàng đầu của EU ở khu vực Đông Nam Á. Việc phát triển quan hệ với một đối tác đặc biệt gồm 27 thành viên như EU không chỉ phù hợp với chính sách đối ngoại đa phương của Việt Nam mà còn giúp Việt Nam cân bằng quan hệ với các nước lớn. Mối quan hệ này còn được củng cố bằng các mối quan hệ song phương, đối tác chiến lược, đối tác toàn diện giữa Việt Nam và các nước thành viên chủ chốt của EU, như Đức, Pháp, I-ta-li-a, Tây Ban Nha, Đan Mạch, Hà Lan,... tạo nên sự đan xen lợi ích và chiến lược cho tất cả các bên.
Với EVFTA và IPA, quan hệ thương mại đã trở thành trụ cột trong phát triển quan hệ giữa hai bên. Việc triển khai hai hiệp định này sẽ mở rộng thị trường cho các ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam (dệt may, giầy dép, hàng nông sản...), cũng là cơ hội tiếp cận với các thiết bị, công nghệ, kỹ thuật cao của EU, đồng thời có điều kiện để hoàn thiện hơn nữa thể chế, chính sách, pháp luật theo hướng minh bạch, phù hợp hơn với thông lệ quốc tế.
Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi, cũng có những khó khăn nhất định trong quan hệ kinh tế. Ví dụ như, sự khắt khe của thị trường EU với nhiều tiêu chuẩn mới, đòi hỏi cao hơn về kỹ thuật, môi trường, vệ sinh an toàn, bảo vệ quyền người lao động,... cùng với chính sách bảo hộ nông nghiệp... Hay việc EU tập trung vực dậy thị trường nội khối, thắt chặt chi tiêu và hạn chế đầu tư ra bên ngoài... sẽ có những tác động nhất định đến việc thu hút dòng đầu tư chất lượng cao của Việt Nam. Mặc dù hợp tác phát triển giữa Việt Nam và EU đến nay về cơ bản là ổn định, nhưng sau năm 2020, EU có thể điều chỉnh chính sách hợp tác phát triển với Việt Nam, lồng ghép nhiều hơn nữa các điều kiện tiếp nhận viện trợ phát triển chính thức, điều chỉnh nhóm nước ưu tiên sang khu vực các nước Bắc Phi... Thêm vào đó, do Việt Nam đã vượt lên nằm trong nhóm nước có thu nhập trung bình nên chính sách của EU sẽ hướng đến các lĩnh vực phát triển khác, như biến đổi khí hậu, phát triển năng lượng bền vững, tăng cường thể chế...
Về an ninh - chính trị, sự hiện diện của EU tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương không rõ ràng và mạnh mẽ như ở lĩnh vực kinh tế. Chính vì vậy, tiếng nói của EU trong các vấn đề xung đột hiện nay chưa có nhiều tác động sâu sắc. Việt Nam cần xác định rõ tầm ảnh hưởng của EU trong các vấn đề này để từ đó có thể tận dụng vị thế “trung gian” và quan điểm ủng hộ hòa bình và luật pháp quốc tế của EU.
Quan hệ Việt Nam - EU trong thời gian tới cũng phụ thuộc vào sự phát triển của EU. Chính vì vậy, những khó khăn gần đây trong nội khối EU, như khủng hoảng về di cư, xu thế dân túy, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, việc nước Anh rời EU (Brexit),... cũng có những tác động nhất định đến việc thúc đẩy quan hệ giữa hai bên. Nếu EU tiếp tục phát triển theo hướng nhất thể hóa, trở thành một chủ thể thống nhất trên tất cả các lĩnh vực, có tiếng nói trọng lượng hơn trên trường quốc tế... sẽ góp phần mạnh mẽ vào việc thúc đẩy chủ nghĩa đa phương, hòa bình và ổn định ở châu Âu cũng như trên thế giới. Một điều thấy rõ rằng, Việt Nam sẽ là một trong những đối tác được “hưởng lợi” từ sự lớn mạnh của EU.
Kể từ thời điểm ký kết FCA đến nay, quan hệ Việt Nam - EU đã chuyển từ quan hệ mang tính bị động, một chiều giữa “nước nhận viện trợ và nhà tài trợ” thành quan hệ đối tác bình đẳng, hợp tác toàn diện, phát triển bền vững... và ngày càng đi vào chiều sâu. Trên cơ sở những lợi ích song trùng, việc củng cố, tăng cường quan hệ Việt Nam - EU bình đẳng, đôi bên cùng có lợi là nhu cầu chiến lược của cả hai bên, do đó, quan hệ hợp tác Việt Nam - EU sẽ ngày càng phát triển theo chiều sâu và hiệu quả hơn nữa.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?

Bảng tin
146
4908
513
xin hay nhất