

Hãy luôn nhớ cảm ơn và vote 5*
nếu câu trả lời hữu ích nhé!
Kim lân là một nhà văn gắn bó, am hiểu sâu sắc về cuộc sống của nông thôn. Các sáng tác của ông hầu như chỉ viết về cảnh ngộ người nông dân và sinh hoạt làng quê. Truyện ngắn “Làng”, một tác phẩn nổi tiếng của ông, được ông viết trong thời kì chống thực dân Pháp. Câu truyện đã phần nào thể hiện một cách chân thực và sâu sắc vẻ đẹp, tâm hồn, của người nông dân qua nhân vật ông Hai. Thông qua câu truyện ta thấy tình yêu làng, yêu quê hương tha thiết của người nông dân Việt Nam dù là trong mọi hoàn cảnh, chiến tranh hay thời bình thì họ vẫn 1 lòng yêu quê hương đất nước. 1 tình cảm cao đẹp và đáng quý.
Thật vậy, ông Hai yêu làng Chợ Dầu của mình bằng một tình cảm đặc biệt. Ở nơi tản cư ông luôn nhớ về làng, nhớ những ngày làm việc với anh em để rồi “trong lòng ông lão lại thấy náo nức hẳn lên” và “Chao ôi! Ông nhớ làng, nhớ cái làng quá.”. Ông cũng không quên theo dõi tin tức kháng chiến và hỏi thăm làng Chợ Dầu. Tình yêu làng thiết tha, sâu nặng ấy càng được thể hiện sâu sắc khi nhà văn đặt nhân vật vào tình huống bất ngờ, độc đáo. Từ phòng thông tin ra, ông lão đang phấn chấn vì nghe ngóng được nhiều tin vui từ kháng chiến thì lại gặp những người tản cư. Ông quay phắt lại lắp bắp hỏi khi nghe nhắc đến tên làng, mong nhận được những tin tốt lành, nào ngờ lại là tin dữ: “Cả làng chúng nó Việt gian theo Tây..”. Lúc này “cổ ông lão nghẹn ắng cả lại, da mặt tê rân rân” vì sự ngạc nhiên đến nỗi bắt ngờ làm ông đau xót, “ông lão lặng đi tưởng như đến không thở được, một lúc lâu ông mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ, ông cất tiếng hỏi,giọng lạc hẳn đi ” nhằm hi vọng đó không phải là sự thật. Nhưng trước câu nói khẳng định, ông xấu hổ đứng lảng bỏ về, cúi mặt xuống mà đi. Ông xấu hổ vì trước đây hay đi khoe về làng cho mọi người mà bây giờ làng lại là Việt gian, bị người ta chửi bới, chỉ nghĩ đến đó thôi cũng đủ làm ông xấu hổ không dám nhìn mặt ai nữa.
Về đến nhà ông chán chường “nằm vật ra giường”, nhìn đàn con mà nước mắt ông lão cứ giàn ra “ chúng cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng cũng bị người ta rẻ rúng, hắt hủi đấy ư? ******** bằng ấy tuổi đầu…”. Ông thù những kẻ theo Tây, phản bội làng, ông nắm chặt hai tay mà rít lên nhục nhã: “chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này”. Tuy thế nhưng ông vẫn còn niềm tin vào người làng mình, ông kiểm điểm từng người một, họ đều có tinh thần cả, chẳng ai “ lại cam tâm làm điều nhục nhã ấy”. Ông đau xót khi nghĩ đên việc “người ta ghê tởm, người ta thù hằn cái giống Việt gian bán nước”. Mấy ngày sau, ông chẳng dám đi đâu, ông cứ thấy đám đông túm lại là chột dạ, lo lắng người ta nói xấu làng Chợ Dầu. Nỗi ám ảnh day dứt trong ông biến thành nỗi sợ hãi.
Tình cảnh của ông càng éo le hơn khi bà chủ nhà có ý muốn đuổi gia đình ông đi. Ông chợt nghĩ về làng nhưng lại phản đối ngay “ về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ”, ông không cam chịu “ quay lại làm nô lệ cho thằng Tây”. Qua câu nói trên, ta thấy tình yêu làng của ông Hai đã lớn rộng thành tình yêu nước bởi dẫu tình yêu làng có bị lung lay nhưng tình yêu ông dành cho kháng chiến, cho Cụ Hồ không hề thay đổi. Ông lựa chọn một cách dứt khoát và đau đớn: “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Dù xác định thù làng nhưng ông vãn không thẻ dứt bỏ tình cảm của mình với nó. Thê nên ông mới đau đớn, xót xa. Ông đành tìm niềm an ủi trong lời tâm sự với thằng út. Ông hỏi những điều mà ông biết trước câu trả lời: “Thế nhà con ở đâu?”, “Thê con ủng hộ ai?”… Câu trả lời của thằng bé giản dị mà thiêng liêng: “nhà ta ở làng Chợ Dầu”, “Ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm!”…ông muốn con cùng khắc cốt ghi tâm. “Ông lão xúc động, nước mắt ông lão giàn ra chảy ròng ròng trên hai má.”, ông mong mình được minh oan. Thê mới thấy, dẫu có thế nào thì ông vẫn trung thành với kháng chiến, với Cụ Hồ.
Tình huống câu chuyện thật trớ trêu làm sao?!. Nhưng may thay, tin làng Chợ Dầu theo giặc được cải chính. Ông Hai sung sướng như người được sống lại. Ông đóng khăn áo chỉnh tề rồi tất tả chạy theo người báo tin mà quên dặn trẻ coi nhà. Khi trở về “cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên”, ông chia quà cho từng đứa xong thì vội vã đi khe với mọi người về tin làng không theo giặc. Đến đâu cũng câu nói “Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ. Đốt nhẵn! Ông chủ tịch làng tôi mới lên trên này cải chính… cải chính cái tin làng Chợ Dầu chúng tôi đi Việt gian ấy mà. Láo! Láo hết! Toàn la sai sự mục đích cả”, vừa nói “ông lão cứ múa tay lên mà khoe”. Ở đây nói chính ra phải dùng từ “mục kích”(nhìn thấy rõ ràng, tận mắt), vì ông Hai cũng được học một khóa bình dân học vụ nhưng ông cứ đọc bập bõm, câu được câu chăng, ngay cả khi đến phòng thông tin vẫn phải nghe lén, nên ông nói sai cũng là chuyện thường. Tác giả đã đặt nhân vật trong ngôn ngữ khá tự nhiên, bộc lộ thêm tính chất người nông dân Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp. Ông Hai khoe nhà mình bị đốt là minh chứng rằng làng không theo giặc. Mất hết cả cơ nghiệp nhưng ông lão vẫn sung sướng, không hề tiếc nuối. Qua đó ta hiểu thêm, đối với ông vật chất chẳng có giá trị gì cả, nhưng danh dự, tinh thần yêu nước là trên cả. Đó là một niềm vui kì lạ nhưng thể hiện cảm động tình yêu làng, yêu nước, tinh thần hi sinh của người nông dân Việt Nam trong cuộc kháng chống giặc ngoại xâm.
Với cách chọn tình huống độc đáo, bằng lối văn miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật tinh tế, ngôn ngữ nhân vật –lúc đối thoại, khi độc thoại, và độc thoại nội tâm – đa dạng, nhà văn đã thể hiện được chiều sâu tâm trạng của nhân vật, góp một phần không nhỏ tới thành công của tác phẩm.
Qua nhân vật ông Hai, ta hiểu thêm về vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân Việt Nam thời kì chống thực dân Pháp xâm lược. Đó là tình yêu làng hòa quyện với tình yêu nước, yêu kháng chiến. Tác phẩm “Làng” giúp ta hiểu hơn về những con người này, từ đó yêu mến họ, trân trọng, biết ơn họ - thành phần hậu phương vững chắc, cũng như biết tại sao cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta thành công .
Mình ko có dùng điện thoại nên ngồi làm siêu nhân bàn phím gõ bài vào :)). ;-; *ôi tay tôi*
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?

Ông Hai cũng như bao người nông dân quê từ xưa luôn gắn bó với làng quê của mình.Ông yêu quí và tự hào về làng Chợ Dầu và hay khoe về nó một cách nhiệt tình, hào hứng. Ở nơi tản cư ông luôn nhớ về làng, theo dõi tin tức kháng chiến và hỏi thăm về Chợ Dầu .
Tình yêu làng của ông càng được bộc lộ một cách sâu sắc và cảm động trong hoàn cảnh thử thách. Kim Lân đã đặt nhân vật vào tình huống gay gắt để bộc lộ chiều sâu tình cảm của nhân vật. Đó là tin làng chợ Dầu lập tề theo giặc. Từ phòng thông tin ra, đang phấn chấn, náo nức vì những tin vui của kháng chiến thì gặp những người tản cư,nghe nhắc đến tên làng, ông Hai quay phắt lại, lắp bắp hỏi, hy vọng được nghe những tin tốt lành, nào ngờ biết tin dữ: "Cả làng Việt gian theo Tây ". Tin bất ngờ ấy vừa lọt vào tai đã khiến ông bàng hoàng, đau đớn : "Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại,da mặt tê rân rân ,ông lão lặng đi tưởng như đến không thở được, một lúc lâu ông mới rặn è è nuốt một cái gì vướng ở cổ. Ông cất tiếng hỏi, giọng lạc hẳn đi "nhằm hy vọng điều vừa nghe không phải là sự thật. Trước lời khẳng định chắc chắn của những người tản cư,ông tìm cách lảng về. Tiếng chửi văng vẳng của người đàn bà cho con bú khiến ông tê tái :"cha mẹ tiên sư nhà chúng nó, đói khổ ăn cắp ăn trộm bắt được người ta còn thương, cái giống Việt gian bán nước thì cứ cho mỗi đứa một nhát".
Về đến nhà ông chán chường "nằm vật ra giường", nhìn đàn con nước mắt ông cứ giàn ra " chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư?". Ông căm thù những kẻ theo Tây, phản bội làng, ông nắm chặt hai tay lại mà rít lên: "chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này ". Niềm tin, nỗi ngờ giằng xé trong ông. Ông kiểm điểm lại từng người trong óc, thấy họ đều có tinh thần cả "có đời nào lại cam tâm làm cái điều nhục nhã ấy ". Ông đau xót nghĩ đến cảnh "người ta ghê tởm, người ta thù hằn cái giống Việt gian bán nước".Suốt mấy ngày liền ông chẳng dám đi đâu,"chỉ ở nhà nghe ngóng binh tình", lúc nào cũng nơm nớp tưởng người ta đang để ý, đang bàn tán đến cái chuyện làng mình. Nỗi ám ảnh, day dứt, nặng nề biến thành sự sợ hãi thường xuyên trong ông. Ông đau đớn, tủi hổ như chính ông là người có lỗi...
Tình thế của ông càng trở nên bế tắc, tuyệt vọng khi bà chủ nhà có ý đuổi gia đình ông với lý do không chứa người của làng Việt gian. Trong lúc tưởng tuyệt đường sinh sống ấy,ông thoáng có ý nghĩ quay về làng nhưng rồi lại gạt phắt ngay bởi "về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ là "cam chịu quay trở lại làm nô lệ cho thằng Tây".
Tình yêu làng lúc này đã lớn rộng thành tình yêu nước bởi dẫu tình yêu, niềm tin và tự hào về làng Dầu có bị lung lay nhưng niềm tin và Cụ Hồ và cuộc kháng chiến không hề phai nhạt. Ông Hai đã lựa chọn một cách đau đớn và dứt khoát: "Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù!". Dù đã xác định thế nhưng ông vẫn không thể dứt bỏ tình cảm của mình đối với quê hương. Bởì thế mà ông càng xót xa,đau đớn...
Trong tâm trạng bị dồn nén và bế tắc ấy, ông chỉ còn biết tìm niềm an ủi trong lời tâm sự với đứa con trai nhỏ. Nói với con mà thực ra là đang trút nỗi lòng mình. Ông hỏi con những điều đã biết trước câu trả lời:"Thế nhà con ở đâu?", "thế con ủng hộ ai ?". Lời đứa con vang lên trong ông thiêng liêng mà giản dị:"Nhà ta ở làng Chợ Dầu","ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm !". Những điều ấy ông đã biết, vẫn muốn cùng con khắc cốt ghi tâm. Ông mong "anh em đồng chí biết cho bố con ông, tấm lòng bố con ông là như thế đấy,có bao giờ dám đơn sai,chết thì chết có bao giờ dám đơn sai ". Những suy nghĩ của ông như những lời nguyện thề son sắt. Ông xúc động, nước mắt "chảy ròng ròng trên hai má". Tấm lòng của ông với làng,với nước thật sâu nặng,thiêng liêng. Dẫu cả làng Việt gian thì ông vẫn một lòng trung thành với kháng chiến,với Cụ Hồ .
May thay, tin đồn thất thiệt về làng Chợ Dầu được cải chính. Ông Hai sung sướng như được sống lại. Ông đóng khăn áo chỉnh tề đi với người báo tin và khi trở về "cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui rạng rỡ hẳn lên ". Ông mua cho con bánh rán đường rồi vội vã,lật đật đi khoe với mọi người. Đến đâu cũng chỉ mấy câu"Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ !Đốt sạch !Đốt nhẵn ! Ông chủ tịch làng tôi vừa mới lên trên này cải chính. Cải chính cái tin làng chợ Dầu chúng tôi Việt gian theo Tây ấy mà. Láo!Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả." "Ông cứ múa tay lên mà khoe với mọi người". Ông khoe nhà mình bị đốt sạch, đốt nhẵn như là minh chứng khẳng định làng ông không theo giặc. Mất hết cả cơ nghiệp mà ông không hề buồn tiếc, thậm chí còn rất sung sướng,hạnh phúc. Bởi lẽ,trong sự cháy rụi ngôi nhà của riêng ông là sự hồi sinh về danh dự của làng chợ Dầu anh dũng kháng chiến. Đó là một niềm vui kỳ lạ,thể hiện một cách đau xót và cảm động tình yêu làng, yêu nước, tinh thần hy sinh vì cách mạng của người dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược.
Cách miêu tả chân thực, sinh động, ngôn ngữ đối thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm đa dạng, tự nhiên như cuộc sống cùng với những mâu thuẫn căng thẳng, dồn đẩy, bức bối đã góp phần không nhỏ tạo nên thành công của câu chuyện, đồng thời còn thể hiện sự am hiểu và gắn bó sâu sắc của nhà văn với người nông dân và công cuộc kháng chiến của đất nước.
Qua nhân vật ông Hai ta hiểu thêm về vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược: Yêu làng, yêu nước và gắn bó với kháng chiến. Có lẽ vì thế mà tác phẩm "Làng " xứng đáng là một trong những truyện ngắn xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?

I, MB: Viết về hình ảnh những người nông dân trong cuộc kháng chiến, chắc chắn không thể không kể đến tác phầm "Làng" của nhà văn Kim Lân. Đây là truyện ngắn xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại. “Làng” được viết và đăng báo trên tạp chí Văn nghệ năm 1948 – giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Truyện diễn tả chân thực,sinh động tình yêu làng quê của ông Hai – một người nông dân dời làng đi tản cư thời kì kháng chiến chống Pháp.Qua đó, cho thấy tình yêu làng quê thống nhất với tình yêu nước và tinh thần kháng chiến.
II, TB
1, Khái quát chung
-HCST:
2, Phân tích
a. Cuộc sống của ông Hai ở nơi tản cư.
- Xa quê, ở nhờ nhà người khác.
- Mọi người đều lo kiếm sống. ( Vợ và con gái đàu chạy chợ, ông và hai đứa con nhỏ tìm đất trồng trọt ).
- Cuộc sống tạm bợ, khó khăn nhưng nề nếp.
- Làng quê, cuộc kháng chiến của đất nước.
* Đoạn '' Ông lại nghĩ về...làng quá".
- Cùng anh em đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuôn đá, cái chòi gác đầu làng, những đường hầm bí mật.
- Vì làng ông là làng tích cực kháng chiến.
-Tình cảm gắn bó, tự hào với làng quê. ''Ông hai đi nghênh ngang...vui quá"
- Mong nắng cho tây chết mệt ( nắng...chúng nó ).Nghe lỏm đọc báo thường xuyên ở phòng thông tin để biết tin tức kháng chiến -> đầy lòng tin kháng chiến. Không giấu cảm xúc vui mừng.
b.Cuộc sống của ông Hai từ khi nghe tin làng theo giặc.
- Cổ nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân.
- Ông lão lặng người đi tưởng như không thở được...
- Vờ đứng lảng ra chỗ khác.
- Cúi gằm mặt xuống.
- Sợ người khác biết mình là người làng Dầu.
* Xấu hổ, uất ức.
- Nằm vật ra giường, nước mắt trào ra, miệng rít lên.
- Trằn trọc không ngủ được.
* Đau khổ, tủi nhục.
- '' Làng thì yêu thật...phải thù ''.
- Tuyệt đường sinh sống.
- Về: Quay lại làm nô lệ cho giặc.Suy nghĩ, đấu tranh: Về - ở. Cuộc đấu tranh nội tâm-->bế tắc, tuyệt vọng, yêu ghét rõ ràng.
- Trò chuyện với con. Không biết giãi bày với ai, mượn con để bày tỏ tấm lòng son của mình với làng quê đất nước.
- Nước mắt giàn ra, chảy ròng ròng trên hai má. Tình yêu làng, yêu nước sâu nặng
c.Tin làng theo giặc được cải chính.
- Cái mặt buồn thỉu mọi ngày...hấp háy...
- Cười nói, chia quà cho con.
* Vui sướng.
- Đó là bằng chứng gia đình ông không những không theo giặc mà còn là gia đình kháng chiến.
- Lật đật đi thẳng, múa tay lên mà khoe.
- Vén quần lên tận bẹn mà nói về cái làng của ông.
=>Yêu làng thắm thiết.
3, Đánh giá chung
a .Nghệ thuật.
- Ngôn ngữ đối thoại, độc thoại.
- Kết hợp miêu tả ngoại hình.
- Nội tâm đặc biệt miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật.
4. Bài học
- Để phát huy lòng yêu nước cần phải chăm chỉ lao động và học tập, ra sức côgn hiến cho quê hương đất nước.
III, KB: Khẳng định lại vấn đề
*bài viết
Viết về hình ảnh những người nông dân trong cuộc kháng chiến, chắc chắn không thể không kể đến tác phầm "Làng" của nhà văn Kim Lân. Đây là truyện ngắn xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại. “Làng” được viết và đăng báo trên tạp chí Văn nghệ năm 1948 – giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Truyện diễn tả chân thực,sinh động tình yêu làng quê của ông Hai – một người nông dân dời làng đi tản cư thời kì kháng chiến chống Pháp.Qua đó, cho thấy tình yêu làng quê thống nhất với tình yêu nước và tinh thần kháng chiến.
Ở ông Hai nổi bật lên trước hết là tình yêu làng sâu sắc. Điều này được thể hiện qua những suy nghĩ của ông ở nơi tản cư khi nhớ về cái làng chợ Dầu yêu quý của mình. Ông là một người nông dân chất phác, nồng hậu, chân chất... như bao người nông dân khác. Ông yêu làng,tự hào về làng và kể chuyện về cái làng ấy một cách say mê, náo nức lạ thường: Ông khoe làng ông có cái làng thông tin tuyên truyền sáng sủa,rộng rãi nhất vùng;chòi phát thanh thì cao bằng ngọn tre, chiều chiều loa gọi thì cả làng nghe thấy. Ông thường đến nhà hàng xóm để cởi mở giãi bày những suy nghĩ tình cảm của mình về cái làng Chợ Dầu thân yêu, về cuộc kháng chiến của dân tộc. Ông đi nghe báo, ông đi nghe nói chuyện, ông bàn tán về những sự kiện nổi bật của cuộc kháng chiến...Ông nhớ làng da diết – muốn về làng, muốn tham gia kháng chiến. Ở phòng thông tin, ông nghe được nhiều tin ha những tin chiến thắng của quân ta khiến cho "Ruột gan ông cứ múa cả lên" . Như vậy, ông luôn quan tâm tha thiết, nồng nhiệt đến cuộc kháng chiến. Ông Hai là người nông dân có tính tình vui vẻ, chất phác, có tấm lòng gắn bó với làng quê và cuộc kháng chiến.
Tình cảm yêu làng, yêu nươc của ông Hai đã được bộc lộ sâu sắc thông qua tình huống nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc. Cái tin làng Chợ Dầu theo giặc đã làm ông điếng người: “Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân. rân. Ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở được. Nỗi đau đớn, bẽ bàng được nhà văn Kim Lân khắc họa 1 cách sâu sắc. Nghe tiếng chửi bọn Việt gian, ông“cúi gằm mặt mà đi”. Về đến nhà ông nằm vật ra giường rồi tủi thân nhìn lũ con “nước mắt ông lão cứ giàn ra”. Suốt mấy ngày ông không dám đi đâu. Ông quanh quẩn ở nhà,nghe ngón tình hình bên ngoài. Trong nỗi tủi nhục ê chề, thậm chí ông không dám nhắc tới, phải gọi tên cái chuyện phản bội là “chuyện ấy”. Ông Hai rơi vào tình trạng bế tắc, tuyệt vọng khi nghĩ tới tương lai. Ông không biết đi đâu, về làng thi không được, vì về làng lúc này là đồng nghĩa với theo Tây,phản bội kháng chiến. " Ai người ta chứa. Ai người ta buôn bán mấy. Suốt cả cái nước Việt Nam này người ta ghê tởm, người ta thù hằn cái giống Việt gian bán nước…”. Và cuối cùng, ông chỉ biết giãi bày tâm sự cùng đứa con út. giúp ông bày tỏ tình yêu sâu nặng với làng Chợ Dầu "nhà ta ở làng Chợ Dầu",bày tỏ tấm lòng thủy chung son sắt với kháng chiến, với Cụ Hồ "chết thì chết có bao giờ dám đơn sai". Dường như ông Hai đang nói chuyện với chính mình, đang giãi bày với lòng mình và cũng như đang tự nhắc nhở. Như vậy,từ một người nông dân yêu làng, ông Hai trở thành người công dân nặng lòng với kháng chiến.
Ông càng buồn khổ bao nhiêu, ông càng sung sướng bấy nhiêu khi nghe tin làng ông được cải chính. Cái mặt buồn thỉu mọi ngày trở nên hấp háy...Vui nên ông chia quà cho các con. Thậm chí, ong chạy khắp xóm, gặp ai là khoe rằng giặc Tây đốt nhà của ông. Ông đi tìm bác Thứ để thanh minh: "Chính cái tin làng chợ Dầu chúng tôi đi Việt gian ấy mà. Láo ! Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả " Ông cứ lặp đi lặp lại câu "láo hết, toàn là sai sự mục đích cả", ông Hai còn múa tay lên mà khoe tin ấy với mọi nguời... Và tối hôm ấy, ông lại sang bên nhà bác Thứ, lại ngồi trồn chiếc chõng tre, vén quần lên tận bẹn mà nói chuvẹn về cái làng của ông... Từ một người nông dân yêu làng, ông Hai trở thành người công dân nặng lòng với kháng chiến.Tình yêu làng, yêu nước đã hòa làm một trong ý nghĩ, tình cảm, việc làm của ông Hai. Tình cảm ấy thống nhất,hòa quyện như tình yêu nước được đặt cao hơn, lớn rộng lên tình làng.
Trong thời đại ngày nay, để phát huy tinh thần yêu nước ấy, mỗi người cần nhận thức đúng đắn về ý nghĩa của độc lập tự do ngày hôm nay. Đồng thời ra sức lao động, học tập để xây dựng đất nước phát triển.
Như vậy, nhân vật ông Hai được tác giả đặt vào 1 tình huống thật éo le để làm nổi bật tình yêu làng, yêu nước sâu sắc của người nông dân trong kháng chiến. Ông Hai là hình ảnh tiêu biểu của người nông dân trong thời kì kháng chiến chống Pháp.
Bảng tin
93
1010
76
Bn tự vt à
93
1010
76
Hay coppy