

Hãy luôn nhớ cảm ơn và vote 5*
nếu câu trả lời hữu ích nhé!

Đây là câu trả lời đã được xác thực
Câu trả lời được xác thực chứa thông tin chính xác và đáng tin cậy, được xác nhận hoặc trả lời bởi các chuyên gia, giáo viên hàng đầu của chúng tôi.
Có nhà phê bình văn học đã từng nói : “ Thi ca là thứ nghệ thuật chung của tâm hồn đã trở nên tự do, không bó buộc vào nhận thức quan về vật chất bên ngoài. Thay vì thế nó diễn ra riêng tư trong không gian bên trong và thời gian bên trong của tác giả và cảm xúc”. Đúng vậy, văn chương đích thực phải là thứ văn chương chín đủ cảm xúc ( Xuân Diệu ), cũng là thứ văn khi đọc lên mà sau khi gấp lại, người ta vẫn bâng khuâng mãi khôn nguôi. Tự tình 2 của Hồ Xuân Hương là 1 áng văn như thế. Nó khiến ta xúc động nghẹn ngào trước những tâm sự cay đắng của người thi sĩ họ Hồ , số phận người đàn bà được mệnh danh là “Bà chúa thơ Nôm” của dân tộc sao mà éo le, ngang trái đến vậy.
Thi phẩm “Tự tình II” nằm trong chùm thơ “Tự tình” gồm ba bài được viết bằng chữ Nôm theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Nhan đề bài thơ đã giúp ta phần nào hiểu được nỗi niềm của Hồ Xuân Hương. Tự tình là tự bộc lộ, giãi bày tâm trạng hay chính là sự hé mở những nỗi lòng khó nói và dường như bà không chỉ nói cho riêng mình mà còn nói cho cả biết bao số phận hẩm hiu người phụ nữ trong xã hội phong kiến luôn khát vọng được sống, được hạnh phúc và yêu thương đến từ họ.
Mở đầu bài thơ gợi lên cho độc giả nỗi niềm cô đơn buồn tủi giữa đêm khuya thanh vắng của một tâm hồn đa sầu, đa cảm khiến ta không khỏi xót thương:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non”
Khi màn đêm buông xuống chính là lúc con người ta được nghỉ ngơi, đoàn viên bên gia đình, bỏ lại sau lưng biết bao lo toan, bộn bề của cuộc sống để cùng nhau chìm sâu vào giấc ngủ ấm êm. Nhưng cũng chính lúc này, vẫn còn một người phụ nữ đang bơ vơ giữa cái vô thủy, vô chung của không gian, của thời gian. Đêm nay hẳn cũng như bao đêm khác, người phụ nữ ấy có bao giờ hết lẻ loi một mình đâu? Cái không gian tĩnh lặng đến đáng sợ, không còn tiếng ồn ào náo nhiệt mà chỉ còn tiếng trống canh dồn hối hả, giục giã như muốn cướp lấy thời gian, tàn phá không gian vậy. Tiếng trống canh đâu có bình thường mà nó còn “văng vẳng” giữa không gian yên tĩnh.
Ở dây, Xuân Hương đã khéo léo sử dụng bút pháp nghệ thuật quen thuộc của thi pháp cổ điển là lấy động tả tĩnh. “Trống canh dồn”, tiếng trống canh thôi thúc, gấp gáp, liên hồi thể hiện bước đi dồn dập của thời gian. Tiếng trống của tâm trạng – tâm trạng rối bời vì thời gian trôi qua nhanh có nghĩa là tuổi xuân của nhà thơ cũng qua mau. Cách cảm nhận bước đi của thời gian qua tiếng trống điểm canh là cách cảm nhận rất đỗi Á Đông. Đó là thời gian tâm lí thấm đậm chất trữ tình.
Tưởng rằng thủ pháp lấy động tả tĩnh sẽ giúp bức tranh thấm đượm nỗi buồn trở nên vui tươi nhưng hóa ra chỉ làm mọi thứ đắm chìm vào nỗi ngao ngán trong đêm chường, để rồi chỉ biết tự trách chính mình sao để thời gian tuổi xuân qua nhanh đến vậy. Và khi mối tơ lòng không thể gỡ nhưng thời gian vẫn không ngừng trôi thì chỉ còn đọng lại trong người phụ nữ là sự bất lực đến bẽ bàng mà thôi:
“Trơ cái hồng nhan với nước non”.
Từ “trơ” được đảo lên đầu câu gây ấn tưởng mạnh mẽ. “Trơ” là tủi hổ, là bẽ bàng. Thêm vào đó là hai từ “hồng nhan” là để chỉ sắc đẹp của người con gái, mà lại đi với từ “cái” càng làm nổi bật hơn thân phận người phụ nữ bị rẻ rúng, mỉa mai . Vì vậy, ta càng thêm thấm thía, xót xa. Nhịp điệu 1/3/3 cũng là để nhấn mạnh sự bẽ bàng. Trong văn cảnh này, chữ “trơ” không chỉ là tủi hổ, bẽ bàng mà còn là thách thức. “Từ “trơ” kết hợp với nước non thể hiện sự bền gan, thanh đố. Như vậy ở đay ra thấy được bên cạnh nỗi đau Xuân Hương là bản lĩnh Xuân Hương.
Khi nỗi buồn đã thấm đến tận tâm ca thì con người cũng chỉ biết mượn rượu giải sầu và Hồ Xuân Hương cũng vậy, nhưng liệu rượu có giúp người phụ nữ ấy quên đi tất cả:
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”
Khi xưa khi Tk rơi vào lầu xanh cũng uống rượu thâu đêm suốt sáng và rồi khi tỉnh dậy thì cũng chỉ biết “Giật mình mình lại thương mình xót xa” còn sau này ta lại bắt gặp CP, khi gã tìm đến men rượu để quên đi tất cả nỗi đau của cuộc sống nhưng rồi khi tỉn rượu thì lại càng thấm thía, càng thấy rõ cuộc đời mình bất hạnh là do đâu, càng thấy rõ mình chẳng thể quay lại làm người lương thiện được nữa..Có lẽ HXH cũng vậy người phụ nữa ấy say để quên đi nỗi sầu nhưng uống rồi thì thấm thía nỗi đau đến tột cùng. Hương rượu khi ấy để lại vị đắng chát, hương tình khi ấy chỉ còn thoáng qua như trò đùa của tạo hoá. Cụm từ “say lại tỉnh” như là một vòng luẩn quẩn lặp đi lặp lại, tình duyên như trở thành trò đùa, càng say lại càng tỉnh, càng cảm nhận nỗi đau thân phận.
Cảnh tình của Xuân Hương được thể hiện qua hình ảnh thơ chứa đựng sự éo le: Trăng sắp tàn mà vẫn “khuyết chưa tròn”. Tuổi xuân đã trôi qua mà tình duyên còn chưa trọn vẹn. Hương rượu để lại vị đăng chát, hương tình thoảng qua để chỉ còn “phận hẩm duyên ôi”. Sự đối lập giữa “say”-“tỉnh”, “khuyết”-“tròn” đã gợi lên cho người đọc cảm giác chông chênh, không xác định được ranh giới giữa không và có, say và tỉnh. Cặp từ trái nghĩa đã giúp ta nhận ra được điều đó giữa hi vọng mong manh về hạnh phúc và hiện thực phũ phàng.
Tản Đà từng nhận xét thơ của Hồ Xuân Hương rằng: “Trong thơ Hồ Xuân Hương có quỷ” bởi lẽ mọi sự vật trong thơ bà lúc nào cũng cựa quậy, căng đầy sức sống:
“Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn”
Hai câu thơ tả cảnh được cảm nhận qua tâm trạng cũng như mang theo nỗi niềm phẫn uất của con người. Những sinh vật bé nhỏ như đám rêu kia cũng không chịu mềm yếu, khuất phục mà phải xiên ngang mặt đất trỗi dậy mạnh mẽ. Đá đã rắn chắc lại phải cứng cáp hơn để “đam toạc chân mày”. Biện pháp đảo ngữ trong hai câu luận đã làm nổi bật sự phẫn uất của cỏ cây, cũng như sự phẫn uất trong tâm trạng. Không chỉ vậy những động từ mạnh “xiên, đâm” cũng được kết hợp với bổ ngữ “ngang”, “toạc” độc đáo thể hiện sự bướng bỉnh, ngang trái. Điều đó đã thể hiện một phong cách Xuân Hương, không chỉ phẫn uất mà còn phản kháng, không khuất phục trước số phận đau khổ, muốn vươn lên bằng chính sức sống mãnh liệt của mình. Với tài năng sử dụng từ ngữ, hình ảnh mạnh mẽ, táo bạo, lấy cảnh ngụ tình, hai câu thơ đã gợi lên cảnh vật sinh động, đầy sức sống. Đó cũng chính là tâm hồn đầy sức sống, cõi lòng nhiều khao khát của Xuân Hương.
Say đến đâu rồi cũng phải tỉnh, ngày dài đến mấy thì cũng sang đêm, “xuân xanh” biết bao vẫn phải úa tàn và ngang ngạch nhường cũng phải chịu thua trước cái xã hội phong kiến mục nát “trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên một chồng”:
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con”
Hồ Xuân Hương đã bộc bạch hết nỗi cay đắng của đời người. “Ngán” là ngán ngẩm với nỗi đời éo le, với vòng xoáy của số phận. Từ “xuân” nay mang hai nghĩa, vừa là mùa xuân, vừa là tuổi xuân. Mùa xuân qua đi rồi lại trở lại với thiên nhiên, với muôn nghìn cây cỏ, hoa lá. Nhưng, với con người thì tuổi xuân qua là không bao giờ quay trở lại. Hai từ “lại” trong cụm từ “xuân đi xuân lại lại” cũng mang hai ý nghĩa khác nhau. Từ “lại” thứ nhất nghĩa là thêm lần nữa, từ “lại” thứ hai nghĩa là trở lại. Sự trở lại của mùa xuân đồng nghĩa với sự ra đi của tuổi xuân. Thủ pháp nghệ thuật tăng tiến, nhấn mạnh vào sự nhỏ bé dần, làm cho nghịch cảnh càng éo le hơn. “Mảnh tình” đã bé lại phải “san sẻ” thành ra ít ỏi, chỉ còn “tí con con” nên càng xót xa, tội nghiệp. Câu thơ kết thúc trong nỗi xót xa, mỉa mai đến tội nghiệp của “cái hồng nhan” trong xã hội phong kiến xua. Câu thơ là nỗi lòng của người phụ nữ vừa đau buồn vừa thách thức duyên phận, gắng gượng nhưng vẫn rơi vào bi kịch. Vì vậy, ý nghĩa nhân văn của bài thơ càng sâu sắc, thấm thía hơn.
Trái tim Xuân Hương đã thức giấc để đập nhịp cùng những tâm hồn của người phụ nữ. Hồ Xuân Hương đối với văn học là quá khứ, nhưng bài học và những cảm xúc mà bà mang lại cho thế hệ ngày nay vẫn tồn tại, hiện hữu. Đó là bài học về sự vượt qua khó khăn, chiến thắng đau khổ. Cuộc đời nữ sĩ Xuân Hương đã hai lần chồng và đều thất bại, nhưng trong tim bà vẫn giữ nguyên nhịp đập hy vọng về hạnh phúc và tình yêu.
Tự tình II là bài thơ tự than thân, tự bộc lộ, tự bày tỏ nỗi lòng của người phụ nữ lận đận tình duyên nhưng luôn khao khát có được một tình yêu trọn vẹn, xứng đáng với tấm chân tình của mình. Đặc sắc trong bút pháp của nữ sĩ cho thấy tài năng thi ca của tâm hồn, với việc sử dụng nghệ thuật lấy động tả tĩnh, thủ pháp tả cảnh ngụ tình, dùng động từ mạnh kết hợp với đảo ngữ và các từ láy càng làng cho bài thơ trở nên sâu sắc, thấm đẫm cái ý cái tình của người phụ nữ.
Những hình ảnh giản dị với tâm trạng uất ức, xót xa cho số phận hẩm hiu và cũng là bi kịch, khát vọng hạnh phúc của Xuân Hương nói riêng hay chính người phụ nữ phong kiến nói chung. Bài thơ đã truyền tải ý nghĩa nhân văn sâu sắc: Dù sống trong hoàn cảnh cay nghiệt nhưng con người vẫn cố gắng vươn lên, thay đổi số phận, mong muốn một cuộc sống tốt đẹp hơn. Tự tình II mà Hồ Xuân Hương để lại sẽ vẫn có giá trị đến muôn đời. Quả thật, Xuân Hương rất xứng đáng với danh xưng “Bà chúa thơ Nôm” khi đã để lại cho đời những áng văn bất hủ.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
Nhắc đến những nhà thơ nữ thì chúng ta không thể không nhắc đến Hồ Xuân Hương- " bà chúa thơ Nôm". Các tác phẩm của bà hầu như đều nói số phận của những người phụ nữ trong xã hội xưa, họ luôn khát vọng sống ,khát vọng hạnh phúc. Với tài năng độc đáo ủa Bà chúa thơ Nôm trong nghệ thuật sử dụng từ ngữ và xây dựng hình tượng. Bài thơ " Tự tình II" đã làm nổi bật nên chính những phong cách thơ của bà.
Câu phá đề mở ra thời gian và không gian nghệ thuật rất đặc biệt: đêm đã về khuya, không gian quá mênh mông và vắng lặng. Chính là nhờ tính từ “văng vẳng” được nữ sĩ dùng vừa tự nhiên, vừa rất tinh tế mà ta nhận ra cùng một lúc không gian mênh mông (tiếng trống cầm canh từ xa xôi theo gió “vẳng” tới,vọng tới; và không gian vắng lặng (bút pháp lấy động tả tĩnh quen thuộc của thi pháp cổ điển). Đã có hai trong tổng số ba bài thơ Tự tình nhà thơ chọn thời gian và không gian nghệ thuật giống nhau đặt ở câu phá đề. Cách cảm nhận bước đi của thời gian qua tiếng trống điểm canh và tiếng gà gáy là cách cảm nhận rất Á Đông. Đó là thời gian tâm lí, thấm đẫm chất trữ tình. Đêm khuya là lúc vạn vật chìm trong giấc ngủ, mọi hoạt động ban ngày dừng lại, đó cũng là lúc tâm tư sâu lắng nhất. Người đang thao thức, suy tư trong đêm khuya lại là một phụ nữ. Đó cũng là điều bất thường. người phụ nữ được đặt trong một không gian mênh mông vắng lặng, giữa đêm hôm khuya khoắt chắc là đầy ắp nỗi niềm không biết ngỏ cùng ai, chẳng coái bên cạnh đề mà sẻ chia, thấu hiểu. Nàng hoàn toàn trơ trọi, lẻ loi, cô độc. Thời gian nghệ thuật thể hiện sự tự cảm thấy của con người trong thế giới. Cảm thức thời gian luôn gắn liền với ý thức về “cái tôi”. Ý thức về “cái tôi” càng trưởng thành, càng sâu sắc thì cảm thức về thời gian trôi chảy càng mãnh liệt. Đã đành thời gian khách quan là vô thủy vô chung. Nhưng thời gian chủ quan của một đời người là hữu hạn. Tuổi xuân của người phụ nữ lại càng ngắn ngủi, cho nên thời gian trong cảm thức cá nhân gắn liền với sự tàn phai và có sức hủy diệt ghê gớm. Cái tiếng “trống canh dồn” kia cũng là một thứ âm thanh tâm lí, nó như “dồn” nén lòng người, nhất là lòng người phụ nữ cô đơn, niềm phẫn uất, nỗi hoang mang, lo sợ.
Cái đáng sợ nhất là cảm thức về sự trôi chảy của thời gian luôn luôn ở thế nghịch đối với niềm vui, nỗi buồn, hạnh phúc và khổ đau của con người. khi vui sướng, hạnh phúc thì có cảm giác “ngày vui ngắn chẳng tày gang” (Nguyễn Du); khi sầu thương, đau khổ thì thời gian bò như ốc, như sên. Trong thời gian và không gian ấy, với Hồ Xuân Hương, chỉ còn lại cái vô duyên, bẽ bàng:
Trơ/ cái hồng nhan/ với nước non.
Trong phép đảo ngữ, nữ sĩ đã đặt tử “trơ” lên đầu câu thơ gây một ấn tượng mạnh mẽ. Từ “trơ” đứng riêng ra, ăn hẳn một nhịp vừa nói được thế lẻ loi, trơ trọi lại vừa nói đến sự vô duyên (trơ ra). Từ “trơ” còn hàm chứa nhiều ngữ nghĩa hơn thế: “trơ” có nghĩa là tủi hổ: “Đuốc hoa để đó, mặc nàng nằm trơ” (Nguyễn Du, Truyện Kiều); “trơ” cũng hàm ý mỉa mai cay đắng, xót xa khi đi với tổ hợp từ “cái hồng nhan”, thì ra “hồng nhan” đi với “bạc phận”, từ “hồng nhan” bị bỏ rơi, chẳng ai đoái hoài đến, đang “trơ” ra với “nước non” (không gian), với thời gian vô thủy vô chung. Càng nghĩ càng thấy phẫn uất, đắng đót, ngậm ngùi. Đời Hồ Xuân Hương sao chẳng thể vui với nước non, mà chỉ thấy “Bảy nổi ba chìm với nước non”, chỉ thấy “Trơ cái hồng nhan với nước non”? Nghĩa là Hồ Xuân Hương đau khổ những vẫn vững vàng bản lĩnh như “Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt” (Bà huyện Thanh Quan, Thăng Long thành hoài cổ)
Tên của bài thơ là Tự tình cho nên câu thực đầu tiên thể hiện tình thực của Hồ Xuân Hương. Trong cô đơn giữa đêm khuya vắng lặng, người phụ nữ ấy đã phải mượn đến chén rượu giải sầu đã là chuyện đầy vơi của nỗi niềm, tâm trạng. Người phụ nữ đến chén rượu đọc ẩm đêm khuya mới là việc cực chẳng đã. Uống rượu mà như uống sầu uống tủi, như nuốt thầm giọt đắng giọt cay. “Say”, có thể lãng quên giây lát nỗi sầu thương. Nhưng “say” rồi sẽ lại “tỉnh”, và lúc ấy mới thật là buồn: “Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh- Giật mình, mình lại thương mình xót xa” (Nguyễn Du, Truyện Kiều). Cụm từ “say lại tỉnh” gợi lên cái vòng luẩn quẩn, bế tắc trong tâm trạng, trong tình cảnh của Hồ Xuân Hương. Đêm đã tàn canh. Vầng trăng lạnh đã “bóng xế” non đoài. Người còn ngồi đó trong tình trạng “say lại tỉnh”, đúng là “Trơ cái hồng nhan với nước non”. Hai câu thực đã triển khai ý chủ đạo được mở ra hai câu đề. Thực cảnh cũng là thực tình. Hình tượng “Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn” đang đồng nhất với thân phận của nữ sĩ. Hình tượng thơ hết sức gợi: tuổi xuân của ngươi phụ nữ trôi mau như “vầng trăng bóng xế” mà nhân duyên không trọn vẹn như vầng trăng chưa bao giờ là trăng rằm tròn đầy, tỏa sáng.
Nỗi niềm phẫn uất dồn nén đã nhiều, không còn ở yên trong lòng được nữa, nó trào ra, thấm vào cảnh vật, tiếp cho mọi vật sức công phá. Nỗi rung động trong lòng mà có sức rung như một cơn động đất. Những động từ kết hợp kết hợp với những bổ ngữ rất mạnh và rất gợi(: “xiên ngang”, “đâm toạc”) mang ý nghĩa phản kháng, nó làm cho những câu thơ của Hồ Xuân Hương như nổi loạn. Nỗi buồn trong thơ Hồ Xuân Hương không làm lòng người mềm yếu, trái lại, có sức mạnh cổ vũ con người, nhất là người phụ nữ, đứng dậy ngay trong bi kịch của đời mình.
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,Mảnh tình san sẻ tí con con!Giọng điệu câu thơ có ý vị của tiếng cười khẩy mỉa mai chua chát nhiều hơn là buồn tủi. Từ “xuân” trong cau thơ của Hồ Xuân Hương thật đa nghĩa. “Xuân” là mùa xuân của đất trơi, mùa xuân của tuần hoàn. “Xuân” là tuổi xuân của một đời người, xuân ấy một đi không bao giờ trở lại. Nói như thi sĩ Xuân Diệu: “ Nói làm chi xuân vẫn tuần hoàn- Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!” (Vội vàng). Đó là một tâm sự rất buồn, một nỗi sầu nhân thế vạn cổ, nó xuyên suốt từ thơ ca trung đại sang thơ ca hiện đại.Hai từ “lại” xếp cạnh nhau một câu thơ nhưng mang hai ý nghĩa khác nhau: từ “lại” thứ nhất mang nghĩa “thêm lần nữa”; từ “lại” tiếp theo mang ý nghĩa của “sự tuần hoàn”, “sự trở lại”. Mùa xuân của đất trời trở lại thì ngày xanh của tuổi xuân lần lượt ra đi. Cách nói giảm dần càng làm cho nghịch cảnh éo le hơn: Mảnh tình- san sẻ- tí- con con. Mảnh tình đã là bé, lại bị “san sẻ” trở nên nhỏ bé hơn, cuối cùng chỉ còn “tí con con”, thật là tội nghiệp! Người phụ nữ trong bài thơ sau những vật vã gắng gượng vươn lên, vẫn không tránh khỏi bi kịch bởi vì thời đại ấy chưa thể chỉ ra lối thoát cho họ.
Tự tình II hàm chứa ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Đó là tiếng lòng đau buồn, phẫn uất trước duyên phận hẩm hiu,là gắng gượng vẫy vùng vươn lên nhưng rốt cuộc vẫn không thoát khỏi bi kịch của nữ sĩ. Bài thơ cho thấy khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc mãnh liệt và tài năng độc đáo của “Bà chúa thơ Nôm” trong nghệ thuật sử dụng từ ngữ và xây dựng hình tượng.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
![]()
Bảng tin