

Hãy luôn nhớ cảm ơn và vote 5*
nếu câu trả lời hữu ích nhé!
I. Các thể loại thơ:
* Thơ dân gian Việt Nam (ca dao, tục ngữ): Là các thể loại được sử dụng nhiều nhất, khá dễ trong dân gian. Hầu như già trẻ lớn bé, trai gái, giàu nghèo... cứ là người Việt Nam là phải biết.
1. Thơ lục bát.
2. Song thất lục bát.
2. Vè.
*Thơ Đường.: Đây là thể loại thơ... uhm... giống như Giáng Vân Hiên. :mrgreen: Dzơi huynh sẽ giúp mọi người. (há Dzơi há)
3. Thơ cổ phong: (ngũ ngôn, thât ngôn)
4. Thơ luật: (ngũ ngôn, thất ngôn)
5. Thơ Tuyệt Cú (hay còn gọi là Tứ Tuyệt).
(ở đây, trong mỗi phần của thơ có thể sẽ chia làm nhiều loại).
*Thơ mới:
7. Thơ bốn chữ.
8. Thơ năm chữ.
9. Thơ sáu chữ.
10. Thơ bảy chữ.
11. Thơ tám chữ.
IV. Các ghi chú về thanh, âm và vần: Đây là phần căn bản, quan trọng nhất mà người làm thơ cần phải biết. Cái này Chỉ Nhược nhớ hình như đã từng được dạy trong chương trình văn cấp 1, lớp 3.
* Thanh: Ở phần này, mọi người chỉ cần ghi nhớ là có hai loại, đó là thanh bằng và thanh trắc.
1. Thanh bằng: bao gồm các chữ không mang dấu hay mang dấu huyền.
Ví dụ: Mèo cào Ù zì. <--- tất cả đều mang dấu huyền, tất cả đều là thanh bằng.
Chu Thông la vang. <--- tất cả đều không dấu, tất cả đều là thanh bằng.
2. Thanh trắc: bao gồm các chữ mang dấu sắc, hỏi, ngã, nặng.
Ví dụ: Hết cả nước lẫn cái.
*Vần:
1. Vần bằng: là các từ có cùng âm và đều là thanh bằng.
Ví dụ:
Anh không ngủ được ư anh?
Để em mở quạt quấn mành lên cho.
Chữ anh và mành ở đâu đều là thanh bằng, và đều cùng âm.
2. Vần trắc: là các từ có cùng âm và đều là thanh trắc.
Ví dụ:
Gia tài em chỉ có bàn tay,
Em trao tặng cho anh từ ngày ấy,
Những năm tháng cùng nhau anh chỉ thấy,
Quá khứ dài là mái tóc em đen.
Bàn Tay-Xuân Quỳnh.
Chữ ấy và thấy ở đây đều có thanh trắc và cùng âm.
3. Tiếng bằng và tiếng trắc không vần với nhau.
Ví dụ: thanh không vần với thánh; (lả) lơi không vần với (tiến) tới.
*Gieo vần: phần này sẽ nói thêm chi tiết khi vào từng thể loại thơ.
1. Vần chéo.
Ví dụ:
Những ngày không gặp nhau
Biển bạc đầu thương nhớ
Những ngày không gặp nhau
Lòng thuyền đau-rạn vỡ
Thuyền và Biển-Xuân Quỳnh.
2. Vần ôm.
Ví dụ:
Nào tướng sĩ dàn ra cho hết,
Để đôi ta quyết liệt một phen,
Quân thiếp trắng, quan chàng đen,
Hai quân ấy chơi nhau đà đã lửa.
Đánh cờ-Hồ Xuân Hương.
3. Vần ba tiếng.
Ví dụ:
Nghìn dặm có duyên sự cũng thành,
Xin đừng lo lắng hết xuân xanh.
Tấc gang tay họa thơ không dứt,
Gần gụi cung dương lá vẫn lành.
Duyên kỳ ngộ-Hồ Xuân Hương.
4. Vần giữa câu và cuối câu.
Ví dụ:
Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn.
Làn thu thuỷ, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành,
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai.
Truyện Kiều-Nguyễn D
* Thơ Lục Bát
- Thơ lục bát là thể thơ đặc biệt của Việt Nam, bao gồm một câu 6 chữ và một câu 8 chữ. Tiếng thứ 6 của câu lục vần với tiếng thứ 6 của câu bát. Tiếng thứ 8 của câu bát lại tiếp tục vần với tiếng thứ 6 của câu lục.
Ví dụ:
Bóng hồng nhác thấy nẻo xa,
Xuân lan thu cúc mặn mà cả hai.
Người quốc sắc, kẻ thiên tài
Tình trong như đã mặt ngoài còn e.
Ngoài ra cũng cần phải chú ý đến thanh phối hợp trong câu. Lấy lại ví dụ trên sẽ thấy.
2 4 6
Bóng hồng nhác thấy nẻo xa
bằng trắc bằng
Xuân lan thu cúc mặn mà cả hai
bằng trắc bằng bằng
Đây là căn bản của thơ lục bát, nói riêng với huynh đệ tỷ muội bắt đầu làm thơ, phần thanh làm cho câu thơ nhịp nhàng hơn, vần làm cho câu có nhạc điệu, hay hơn, mọi người không cần cứ phải chăm chăm vào nó quá... sẽ quên mất ý thơ đấy. Cứ đọc sao thấy êm tai, xuôi câu là được.
- Ngoài ra còn một số ngoại lệ khác trong thơ lục bát: tiếng 6 của câu lục có thể vần với tiếng 4 của câu bát.
Ví dụ:
Đêm nằm gối gấm không êm
Gối lụa không mềm bằng gối tay em.
Mọi người chú ý ở đây, trong câu bát thanh không còn là bằng trắc bằng như ở ví dụ trên mà đổi lại là trắc bằng trắc, và ngắt nhịp ở giữa câu.
2 4 6
Đêm nằm gối gấm không êm
bằng trắc bằng
Gối lụa không mềm bằng gối tay em.
trắc bằng trắc
* Thơ Song thất lục bát:
1. Ngay tên của thể thơ cũng đã nói cho biết thể loại thơ này như thế nào rồi. Song thất lục bát bao gồm 2 câu 7 chữ, 1 câu 6 chữ, và 1 câu 8 chữ. Như mọi người đã nói, Chinh Phụ Ngâm là một trong tác phẩm lớn dùng thể loại này.
Ví dụ:
Nước có chảy mà phiền chẳng rửa, <--- câu thất 1
Cỏ có thơm mà dạ chẳng khuây <--- câu thất 2
Nhủ rồi nhủ lại cầm tay, <--- câu lục
Bước đi một bước dây dây lại dừng. <--- câu bát
Lòng thiếp tựa bóng trăng theo dõi,
Dạ chàng xa tìm cõi Thiên San,
Múa gươm rượu tiễn chưa tàn
Chỉ ngang ngọn giáo vào hàng hang beo.
2. Thanh:
- Ở câu thất 1: tiếng thứ 3, 5, 7 sẽ là trắc bằng trắc.
Nước có chảy mà phiền chẳng rửa.
- Ở câu thất 2: tiếng thứ 3, 5, 7 sẽ là bằng trắc bằng.
Cỏ có thơm mà dạ chẳng khuây
- Ở câu lục bát thì luật bình thường đã nói ở phần lục bát.
3. Vần:
Nước có chảy mà phiền chẳng rửa
Cỏ có thơm mà dạ chẳng khuây
Nhủ rồi nhủ lại cầm tay,
Bước đi một bước dây dây lại dừng.
Lòng thiếp tựa bóng trăng theo dõi,
Dạ chàng xa tìm cõi Thiên San,
Múa gươm rượu tiễn chưa tàn
Chỉ ngang ngọn giáo vào hàng hang beo.
Săn Lâu Lan, rằng theo Giới Tử,
Tới Man Khê, bàn sự Phục Ba,
Aáo chàng đỏ tựa ráng pha,
Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in.
- Những chữ in đậm vần với nhau, và những chữ gạch dưới vần với nhau.
- Tiếng thứ 7 của câu thất 1 vần với tiếng thứ 5 của câu thất 2.
- Tiếng thứ 7 của câu thất 2 vần với tiếng thứ 6 của câu lục.
- Tiếng thứ 6 của câu lục lại vần với tiếng thứ 6 của câu bát theo luật lục bát.
- Ngoài ra tiếng thứ 8 của câu bát có thể tiếp tục vần với tiếng thứ 5 của câu thất tiếp theo (chữ in nghiêng).
* Vè:
- Thể loại này thuộc loại khá dễ cho tất cả mọi người, chỉ cần huynh đệ chú ý một chút về cách thức là có thể làm được ngay. Trong Việt Kiếm đã có Tây Cuồng huynh khai khá về thể loại vè này rồi. Vè đọc lên nghe rất vui tai, rất rộn rã, nhịp nhàng.
- Cách gieo vần trong vè là vần tiếp.
Ví dụ: Dưới đây là bài thơ Vè câu cá của Tây Cuồng. Sau bài thơ kêu gọi này, dân Việt Kiếm cũng đã nhảy vào câu khá nhiều, cá to cá bé gì cũng câu. Bài vè này xảy ra trong thời gian loạn lạc, phong kiến quá độ của xã hội Việt Kíêm, tả khá trung thực cuộc sống đói kém vào thời gian bấy giờ.
Ve vẻ vè ve
Cái vè câu cá
Nhà cũ vừa phá
Nhà mới dựng lên
Chỉ vài tấm phên
Tiền bạc không đủ
Xưa là địa chủ
Ruộng lắm tiền nhiều
Nay lại tiêu điều
Cầu bơ cầu bất
Xin được mảnh đất
Cắm vội cái lều
Chỉ tội một điều
Đất hơi xấu sắc
Bán buôn chẳng đắt
Bán lẻ chẳng xong
Suốt tháng long nhong
Một xu chẳng có
Xin thì chẳng bõ
Vì có ai cho
Đi cướp lại lo
Không đủ bản lĩnh
Thôi thì bình tĩnh
Suy xét trước sau
Sẵn có cần câu
Ao hồ cũng lắm
Kiếm vài con trắm
Con chép con mè
Nằm khểnh bụi tre
Thả câu qua bữa
Hàng xóm tối lửa...
Tắt đèn có nhau
Ai muốn đi câu
Vào đây mà pót
Không thì quay gót
Hoặc lặng mà nghe
Nghe vẻ nghe ve
Cái vè câu cá
* Thơ bốn chữ:
1. Phần thanh:
Tiếng thứ 2 trong câu nếu là bằng thì tiếng thứ 4 trong câu sẽ là trắc, và ngược lại. Nhưng tất nhiên lúc nào cũng có sự ngoại lệ.
Ví dụ:
Con cò bé bé
Nó đậu cành tre
Đi không hỏi mẹ
Biết đi đường nào? <--- trường hợp ngoại lệ, tiếng thứ 2 là bằng, tiếng thứ tư cũng bằng.
-Đây là bài hát con cò bé bé, CN không biết tựa bài.
2. Vần:
- Vần tiếp:
Mặt trời của bé
Là mẹ chứ ai
Bé tựa trên vai
Ngủ say ngon giấc.
Ngoài kia gió bấc
Lòng mẹ ấm êm
Tay mẹ rất mềm
Dịu dàng đưa khẽ.
- Vần ôm:
Hái sao trên trời
Dấu vào trong túi
Đêm về lúi húi
Gói tặng cho em.
- Vần tréo:
Ông trăng buổi sớm
Mệt mỏi ngáp dài
Nụ hồng vừa chớm
Vươn đón nắng mai.
- Vần 3 tiếng:
Sao biếc đầy trời
Sầu trông viễn khơi
Đêm mờ im lặng
Nhìn hạt sương rơi.
- Khổng Dương-
xin hay nhất ạ
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
![]()
Bảng tin
510
6263
468
xin hay nhất ạ