

Hãy luôn nhớ cảm ơn và vote 5*
nếu câu trả lời hữu ích nhé!
Trang chủ Văn Mẫu Lớp 9DÀN Ý PHÂN TÍCH GIÁ TRỊ NHÂN ĐẠO TRONG TRUYỆN KIỀU (NGUYỄN DU)[Văn mẫu 9] Hướng dẫn lập dàn ý phân tích giá trị nhân đạo trong Truyện Kiều của Nguyễn Du với hệ thống luận điểm, luận cứ và dẫn chứng chi tiết.MỤC LỤC NỘI DUNG
DÀN Ý PHÂN TÍCH GIÁ TRỊ NHÂN ĐẠO TRONG TRUYỆN KIỀU
I. Mở bài
- Giới thiệu về tác giả, tác phẩm, đoạn trích
+ “Truyện Kiều” là kiệt tác của thi hào dân tộc Nguyễn Du, cũng là kiệt tác của nền văn học Việt Nam. “Truyện Kiều” vừa có giá trị lớn về mặt nội dung vừa có giá trị về mặt nghệ thuật.
+ Phân tích các đoạn trích “Chị em Thuý Kiều”, “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, “Mã Giám Sinh mua Kiều”, “Kiều báo ân báo oán” ta thấy được tác giả đã thương xót cho số phận bất hạnh của Thuý Kiều cũng là thương xót cho số phận bất hạnh của biết bao người phụ nữ trong xã hội cũ.
II. Thân bài
1. Giá trị nhân đạo trong văn học
* Khái niệm
- Chủ nghĩa nhân đạo là tư tưởng yêu thương con người, tôn trọng các giá trị của con người.
* Biểu hiện
Biểu hiện của chủ nghĩa nhân đạo:
- Trân trọng vẻ đẹp của con người
- Thương xót cho số phận đau thương của con người
- Tố cáo, phê phán những thế lực chà đạp lên con người
- Thấu hiểu ước mơ của con người.
2. Biểu hiện của giá trị nhân đạo trong Truyện Kiều
a) Trân trọng vẻ đẹp của con người
* Vẻ đẹp ngoại hình: Nguyễn Du đã dành nhiều ưu ái khi xây dựng chân dung nhân vật.
- Với Thúy Vân, Nguyễn Du miêu tả tỉ mỉ, chi tiết để dựng nên bức chân dung vừa đáng yêu, thiện cảm, vừa trang trọng, quý phái:
“Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”
- Với Thúy Kiều, Nguyễn Du sử dụng bút pháp “tả mây tô trăng”, “điểm nhãn” để dựng nên bức chân dung sắc sảo, hoàn mỹ, không ngôn từ nào diễn tả hết:
“Kiều càng sắc sảo mặn mà
So về tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”
Cũng như những nhà thơ trung đại khác, Nguyễn Du sử dụng thủ pháp ước lệ để xây dựng chân dung nhân vật, nhưng đối với Nguyễn Du, vẻ đẹp của con người không chỉ sánh ngang với thiên nhiên, mà thậm chí vượt qua thiên nhiên, khiến thiên nhiên phải “thua, nhường”, “ghen, hờn” trước sắc đẹp con người.
*
Vẻ đẹp đức hạnh
- Cả Thúy Kiều và Thúy Vân đều có đức hạnh đoan trang, đúng mực:
“Phong lưu rất mực hồng quần
Xuân xanh xấp xỉ đến tuần cập kê
Êm đềm trướng rủ màn che
Tường đông ong bướm đi về mặc ai”
Ở Thúy Kiều sáng lên vẻ đẹp của đạo hiếu:
“Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh biết ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm”
Ở Kiều, người đọc còn trân trọng một đức tính thủy chung:
Video Player is loading.PauseXEM THÊMUnmuteRemaining Time 7:50
“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ
Chân trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”
Ngoài ra, Thúy Kiều còn có tấm lòng trọng ân nghĩa, khi trả ơn Thúc Sinh, nàng nói:
“Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng
Tại ai há dám phụ lòng cố nhân”
Và một tấm lòng bao dung, độ lượng khi tha thứ cho Hoạn Thư:
“Tha ra thì cũng may đời
Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen
Đã lòng tri quá thì nên”
* Vẻ đẹp tài năng: Tiến bộ hơn các nhà thơ thời trung đại, Nguyễn Du còn đề cao người phụ nữ ở phương diện tài năng, ông đã xây dựng một nhân vật Thúy Kiều đa tài, mà tài nào cũng xuất sắc, tuyệt đỉnh:
“Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương
Khúc nhà tay lựa nên chương
Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân”
→ Trong quan niệm của Nguyễn Du, “chữ tài liền với chữ tai một vần”
⇒ Nói đến cái tài, bên cạnh sự trân trọng còn là một dự cảm bất an cho số phận truân chuyên của con người.
>> Có thể bạn cần: Phân tích nghệ thuật miêu tả nhân vật trong Truyện Kiều
b) Thương xót cho số phận đau thương của con người
- Đau xót cho thân phận con người bị chà đạp, khinh rẻ, bị biến thành một món hàng để cân đo đong đếm:
“Nỗi mình thêm tức nỗi nhà
Thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng
Ngại ngùng dợn gió e sương
Ngừng hoa bóng thẹn trông gương mặt dày.”
Đau xót cho cảnh ngộ côi cút, đơn độc nơi lầu Ngưng Bích “khóa xuân”:
“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bồn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”
Nguyễn Du nhập thân vào nhân vật để cảm nhận hết nỗi đau của nhân vật, tác phẩm viết ra như có “máu chảy trên đầu ngọn bút”, thương cảm cho tương lai bất định, nhiều bất an của Kiều nơi lầu Ngưng Bích:
“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”
c) Tố cáo, phê phán những thế lực chà đạp lên con người
- Nguyễn Du đã sử dụng ngòi bút hiện thực để vạch trần bản chất xấu xa của những kẻ bất nhân trong xã hội xưa, những kẻ “buôn thịt bán người”, kiếm sống trên thân xác của những cô gái vô tội, tiêu biểu là Mã Giám Sinh.
- Nguyễn Du đã bóc trần cái mác “giám sinh” của họ Mã để cho thấy tính cách vô học, thô thiển của hắn:
“Gần miền có một mụ nào
Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh
Hỏi tên, rằng: Mã Giám Sinh
Hỏi quê, rằng: Huyện Lâm Thanh cũng gần
Quá niên trạc ngoại tứ tuần
Mày rầu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao
Trước thầy sau tớ lao xao
Nhà băng đưa lối rước vào lầu trang
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng”
- Đồng thời ông cũng phẫn nộ trước bản chất con buôn của họ Mã:
“Đắn đo cân sắc cân tài
Ép cung cầm nguyệt thử tài quạt thơ
Mặn nồng một vẻ một ưa,
Bằng lòng khách mới tùy cơ dặt dìu.
Rằng: Mua ngọc đến Lam Kiều
Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?”
…
“Cò kè bớt một thêm hai”
d) Thấu hiểu ước mơ của con người
- Trong “Truyện Kiều”, Nguyễn Du đã thể hiện một ước mơ cao cả: Ước mơ một cuộc sống công bằng, cái thiện được khuyến khích, nâng niu, cái ác phải bị trừng phạt, phải trả giá. Nhân vật Từ Hải là đấng anh hùng trượng nghĩa, là người thực hiện ước mơ công lý của Nguyễn Du. Chính Từ Hải là người giải thoát Kiều khỏi chốn lầu xanh, cho Kiều cơ hội đổi đời, và cho Kiều cơ hội báo ân, báo oán → Ước mơ tốt đẹp, đáng trân trọng.
- Trong đoạn trích “Kiều báo ân báo oán” thái độ của Kiều rất rõ ràng:
+ Với người có ân, một mực trân trọng → Báo ân cho Thúc Sinh:
“Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân
Tạ lòng dễ xứng báo ân gọi là”
+ Với kẻ có tội, nghiêm khắc, công bằng, trừng phạt đúng người đúng tội, khoan hồng cho kẻ thực tâm hối cải → Lời nói đanh thép vạch tội Hoạn Thư:
“Dễ dàng là thói hồng nhan
Càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều”
3. Đánh giá
* Về nội dung
- Chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du là một chủ nghĩa nhân đạo thấm đẫm yêu thương
- Nhân vật Thúy Kiều là nhân vật Nguyễn Du gửi gắm tâm sự.
- Chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du là một chủ nghĩa nhân đạo mới mẻ: Coi vẻ đẹp con người cao hơn thiên nhiên; tôn vinh cái tài của con người.
- Chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du hòa vào dòng chảy chủ nghĩa nhân đạo truyền thống của dân tộc, kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống, góp một tiếng nói bảo vệ, nâng niu con người đầy giá trị.
* Về nghệ thuật
- Giá trị nhân đạo được truyền tải qua những nghệ thuật đặc sắc:
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật (qua lời thoại, qua ngoại hình, qua tính cách) đặc sắc, điêu luyện.
- Nghệ thuật miêu tả tài tình: bút pháp tả mây tô trăng, phục bút, điểm nhãn, thủ pháp ước lệ…
- Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ bậc thầy, làm thăng hoa ngôn ngữ dân tộc.
III. Kết bài
- Cảm nghĩ bản thân về giá trị nhân đạo thông qua “Truyện Kiều” nói chung và qua bốn đoạn trích “Chị em Thuý Kiều”, “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, “Mã Giám Sinh mua Kiều”, “Kiều báo ân báo oán” nói riêng.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
1. Nguyễn Du là thiên tài văn học, danh nhân văn hóa và là nhà nhân đạo chủ nghĩa. Truyện Kiều "là kiệt tác của Nguyễn Du, kết tinh những giá trị nhân văn cao cả của dân tộc và nhân loại. Cảm hứng nhân văn trong truyện Kiều" được thể hiện rõ nét qua hai đoạn trích "Chị em Thúy kiều", "Kiều ở lầu Ngưng Bích" .
2. (Giải thích) Cảm hứng nhân văn trong tác phẩm "Truyện Kiều" được thể hiện ở sự đồng cảm, xót thương trước số phận bi kịch của con người. Đồng thời tố cáo, lên án những thế lực xấu xa trà đạp lên quyền sống, quyền hạnh phúc chính đáng của con người. Khẳng định, đề cao tài năng, nhân phẩm và những khát vọng chân chính của con người như khát vọng về quyền sống, khát vọng tự dong công lí, khát vọng tình yêu, hạnh phúc.
3. (Chứng minh Cảm hứng nhân văn trong đoạn trích "Chị em Thúy Kiều") *Cảm hứng nhân văn trong đoạn trích "Chị em Thúy Kiều thể hiện ở sự ca ngợi vẻ đẹp, tài năng của con người.
Hai chị em có vẻ đẹp chung: Hình dáng thanh tú như cây mai, tâm hồn trắng trong như tuyết, ẩn dụ so sánh làm toát lên vẻ đẹp cao quý của hai chị em Thúy Kiều. Bên cạnh đó mỗi ng có vẻ đẹp riêng. Thúy Vân vẻ đẹp đầy đặn, phúc hậu hiếm có. Vân có nụ cười tươi như hoa nở, giọng nói trong như tiếng ngọc rơi trên mâm vàng (" hoa cười, ngọc thốt "), tóc đen hơn mây, da trắng hơn tuyết.. Còn Thúy Kiều được tác giả nhấn mạnh cả sắc và tài của Thúy Kiều. Về sắc đẹp thì:" Sắc sảo mặn mà, nghiêng nước nghiêng thành" ", đặc biệt ddoooi mắt nàng trong như nước mùa thu, long mày thanh tú như dáng núi mùa xuân. Vẻ đẹp nàng lộng lẫy khiến" hoa "phải" ghen "," liễu "phải" hờn ". Kiều thông minh, nhiều tài, tài nào cũng đạt đến đỉnh cao;" cầm, kì, thi, họa ".. Đó là những tài năng lí tưởng của giới quý tộc xưa. Tác giả sử dụng bút pháp ước lệ thường thấy trong thơ cổ điển, lấy hình ảnh thiên nhiên để gợi tả vẻ đẹp và tài năng của chi em Thúy Kiều.
* Cảm hứng nhân văn trong đoan trích còn thể hiện ở niệm yêu thương, quan tâm cho số phân của con người. Trong khi miêu tả vẻ đẹp và tài năng của hai chị em Thúy Kiều, Nguyễn Du đã gủi gắm vào đấy những dự cảm, sự quan tâm về số phận con người. Thúy Vân mang vẻ đẹp trong khuôn phép tạo hóa ban cho, dự báo trước cuộc đời nàng sẽ sung sướng, không sóng gió. Vẻ đẹp của Thúy Kiều lộng lẫy khiến thiên nhiên phải ganh ghét với nàng huống chi con người. Vì vậy đời nàng tất sẽ long đong vất vả. Từ gọng điệu đến hình ảnh thơ đều phảng phất nỗi lo lắng, dự cảm của Nguyễn Du cho số phận của nàng, một kiếp người tài hoa bạc mệnh. Chính niềm yêu thương, trân trọng và dự cảm ấy đã làm vơi đi một nỗi ám ảnh về triết lí" tài hoa bạc mệnh "và tạo nên nét tươi sang cho cảm hứng nhân văn trong đoan trích.
Đọc đoạn thơ, trái tim ta như hòa cùng cảm hứng nhân văn để rồi lòng mình có thêm niềm yêu thương, trân trọng con người nhiều hơn.
4. (Chứng minh Cảm hứng nhân văn trong đoạn trích" Kiều ở lầu Ngưng Bích ") Cảm hứng nhân văn trong đoạn trích" Kiều ở lầu Ngưng Bích "thể hiện ở sự t rân trọng, đề cao vẻ đẹp tâm hồn Thúy Kiều. Kiều là con người tình nghĩa, thủy chung trong tình yêu: Miêu tả nỗi nhớ của Kiều với Kim Trọng – nỗi nhớ có sự day dứt vì Kiều thấy mình là người có lỗi. Nàng nhủ lòng luôn giữ một chữ" son ", một tình yêu thủy chug dành cho Kim Trọng. Kiều là người con hiều thảo, giàu đức hi sinh: Trong hoàn cảnh cô độc, đáng thương, Kiều đã quên bản thân mình, xót thương khi hình dung cha mẹ già nơi quê nhà sang chiều vẫn tựa cửa ngóng trông đứa con lưu lạc, lo lắng cho cha mẹ khi không biết có ai phụng dưỡng, chăm sóc. Nhà thơ thể hiện thái độ cảm thông sâu sắc cho nhân vật Kiều qua nghệ thuật tả cảnh ngụ tình ở tám câu cuối.
Cảm hứng nhân văn được thể hiện ở bức trạnh tứ bình, mỗi cặp lục bát là một bức tranh tâm trạng với những diễn biến nội tâm tinh tế. Nguyễn Du đã thấu hiểu và đồng cảm nỗi đau khổ, tuyệt vọng của nàng, xót xa không biết thân phận của Kiều rồi sẽ đi về nơi đâu. Đoạn trích gián tiếp tố cáo bọn bất lương buôn thịt bán người: Mã Giám Sinh, Tú Bà. Chính bọn chủ chứa lầu xanh đã đẩy Kiều vào cảnh ngộ cô đơn, bế tắc. Nguyễn Du đã thể hiện sự căm phẫn, lên án, tố cáo bọn người bất lương đã khiến người phụ nữ trong đó có Thúy Kiều rơi vào bất hạnh, khổ đau.
5. Tóm lại, hứng nhân văn là cảm hứng xuyên suốt tác phẩm" Truyện Kiều "của Nguyễn Du và được thể hiện rõ nét qua hai đoạn trích" Chị em thúy Kiều "," Kiều ở lầu Ngưng Bích ". Tấm lòng yêu thương, quan tâm số phân con người; đồng cảm, trân trọng, giá trị người cao đẹp; bất bình, tố cáo cái ác, cái xấu.. là những cảm xúc nhân văn khẳng định sức sống của kiệt tác" Truyện Kiều".
cho mik câu trả lời hay nhé
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
1. Sự cảm thông sâu sắc với nỗi cô đơn và thân phận bi kịch của Thúy Kiều
Ngay từ đầu đoạn trích, Nguyễn Du đã khắc họa cảnh Thúy Kiều bị giam cầm ở lầu Ngưng Bích, nơi xa cách với thế giới bên ngoài, không một ai bên cạnh. Hình ảnh "trước lầu Ngưng Bích khóa xuân" gợi lên không gian đóng kín, Kiều cô đơn, lẻ loi giữa cảnh mênh mông bầu trời và mặt nước. Tâm trạng Kiều càng trở nên đau khổ hơn khi phải đối diện với hoàn cảnh éo le của mình, bị đẩy vào cảnh lưu lạc, mất tự do và không có lối thoát. Nguyễn Du đã bày tỏ sự cảm thông trước nỗi cô đơn, bị bỏ rơi và tuyệt vọng của Kiều, qua đó thể hiện sự trân trọng đối với những khát khao được sống hạnh phúc của con người.
2. Đề cao tình cảm gia đình và lòng hiếu thảo của Thúy Kiều
Trong cảnh cô đơn nơi lầu Ngưng Bích, nỗi nhớ nhà, nhớ người thân của Thúy Kiều là một biểu hiện rõ nét cho lòng hiếu thảo. Nỗi nhớ cha mẹ được diễn tả trong câu thơ đầy xót xa:
"Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?"
Nỗi đau của Kiều không chỉ là sự đau khổ của bản thân, mà còn là nỗi day dứt vì không thể chăm sóc, báo hiếu cha mẹ. Nguyễn Du đã đề cao tình cảm thiêng liêng này, thể hiện lòng nhân đạo khi trân trọng những giá trị đạo đức của con người trong xã hội. Kiều bị giằng xé bởi nỗi nhớ nhà, nhớ cha mẹ và nỗi đau khi không thể thực hiện trọn vẹn bổn phận của một người con.
3. Sự đồng cảm với nỗi đau của người phụ nữ trong xã hội phong kiến
Nguyễn Du qua hình ảnh Thúy Kiều đã bày tỏ sự xót thương, cảm thông trước số phận éo le của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến. Kiều là một thiếu nữ tài sắc vẹn toàn, nhưng phải chịu cảnh đời đầy khổ đau vì những thế lực tàn bạo trong xã hội. Ở lầu Ngưng Bích, Kiều đối mặt với một tương lai mờ mịt, không chỉ phải chịu nỗi cô đơn mà còn phải chịu nỗi dằn vặt, lo lắng cho bản thân và gia đình. Hình ảnh "buồn trông" trong bốn câu cuối đoạn trích thể hiện tâm trạng bi quan, lo sợ và sự mất phương hướng trong cuộc đời Kiều:
"Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu..."
Người phụ nữ trong xã hội xưa không có quyền tự định đoạt số phận của mình, họ bị lệ thuộc và bị cuốn vào những dòng xoáy của xã hội. Qua Kiều, Nguyễn Du đã lên tiếng cho thân phận của người phụ nữ, thể hiện nỗi xót xa trước những bất công mà họ phải chịu.
4. Khát khao về cuộc sống tự do và hạnh phúc
Nguyễn Du đã khắc họa hình ảnh Thúy Kiều với những mong ước về một cuộc sống tự do, hạnh phúc, được tự quyết định số phận của mình. Nỗi nhớ người yêu Kim Trọng, nỗi niềm khắc khoải về gia đình, và sự khát khao về tình yêu, tự do đều là những biểu hiện cho mong muốn về một cuộc sống hạnh phúc và bình an. Thông qua nhân vật Thúy Kiều, Nguyễn Du không chỉ cảm thông cho số phận con người mà còn khao khát xây dựng một xã hội mà trong đó con người được sống tự do, hạnh phúc, không bị đè nén bởi những thế lực tàn bạo.
Bảng tin