

Hãy luôn nhớ cảm ơn và vote 5*
nếu câu trả lời hữu ích nhé!
Tú Xương là thi sĩ trào phúng bậc thầy của nền văn học Việt Nam. Ngoài những bài thơ châm biếm sắc nhọn, lấy tiếng cười làm phương tiện phê phán và đả kích vào bộ mặt xấu xí, suy đồi của cái xã hội thực dân nửa phong kiến thì ông cũng có một số bài thơ cảm động, mang chất bao nỗi niềm của một nhà nho nghèo nhưng thương vợ và tình đời sâu đậm. "Thương vợ" là bài thơ xúc động nhất trong các tập thơ trào phúng của Tú Xương. Nó là một bài thơ trữ tình, đồng thời cũng là một bài thơ thế sự. Bài thơ chứa chan tình cảm thương yêu nồng ấm của tác giả đối với người vợ hiền. Những câu thơ đầu gợi nên hình ảnh bà Tú trong gia đình là một người vợ vô cùng tần tảo, đảm đang. Nếu bà vợ của Nguyễn Khuyến là một phụ nữ " hay lam hay làm, thắt lưng buộc que, xắn áo quai cồng, siêng chân nam đá chân chiêu, cùng tớ lo toan tất cả mọi chuyện " (câu đối của Nguyễn Khuyến) thì bà Tú cũng là một người đàn bà:
"Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng".
" Quanh năm buôn bán " là cảnh làm ăn vất vả, hết ngày này qua ngày khác, từ tháng này qua tháng khác, không có một ngày nghỉ ngơi. Bà Tú "buôn bán ở mom sông", trên mỏm đất nhô cao, ba bề bao bọc sông nước, nơi kinh doanh là gò đất cheo leo. Hai chữ "mom sông" gợi tả một cuộc đời nhiều mưa nắng, một cảnh đời lắm cay cực, vất vả bươn chải kiếm tiền, mới "nuôi đủ năm con với một chồng". Một gánh gia đình đè nặng lên đôi vai người mẹ, người vợ. Thông thường người ta chỉ đếm mớ rau, con cá, đếm đồng tiền,.... chứ ai đếm "con" đếm "chồng". Câu thơ cũng ẩn chứa nỗi niềm chua xót của một gia cảnh gặp lắm khó khăn: đông con, người chồng đang phải "ăn lương vợ". Có thể nói, hai câu thơ trong bài này, Tú Xương khắc hoạ được một cách chân thực hình ảnh người vợ tảo tần, đảm đang của mình. Phần văn, tô đậm nét hơn chân dung bà Tú, mỗi sáng mỗi tối đã "lặn lội" nơi chốn "thân cò khi quãng vắng". Ngôn ngữ thơ tăng cấp càng tô đậm nét hơn sự nhọc nhằn của người vợ. Câu chữ như những nét chấm phá, gam màu xen kẽ nhau, bổ sung và gia tăng; đã "lặn lội" nơi "thân cò", rồi còn "khi quãng vắng". Nỗi nhọc nhằn tìm quê ở " mom sông " tưởng như không bao giờ diễn tả hết được! Hình ảnh "con cò" cái cò trong ca dao xưa:
" Con cò lặn lội bờ sông.... ,
Con cò đi đón cơn mưa..... ,
Cái cò, cái vạc, cái nông, . . " được tái hiện trong thơ Tú Xương với hình ảnh " thân cò " mộc mạc, đã đem lại cho người xem bao liên tưởng xúc động về bà Tú, cũng như số phận nhọc nhằn, vất vả, của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội cũ:
“Lặn lội thân cò nơi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”.
“Eo sèo” là từ láy tượng thanh chi sự làm rầy rà bằng lời đòi, gọi liên tiếp dai đẳng: gợi tả cảnh tranh mua tranh bán, cảnh cãi vã nơi “mặt nước” lúc “đò đông”. Một cuộc đời “lặn lội”, một cảnh sống làm ăn “eo sèo”. Nghệ thuật đối đặc sắc đã làm nổi bật cảnh kiếm ăn nhiều cơ cực. Bát cơm, manh áo mà bà Tú kiếm được “nuôi đủ năm con với một chồng’” phải. “lặn lội” trong mưa nắng, phải giành giật “eo sèo”, phải trả giá bao mồ hôi, nước mắt giữa thời buổi khó khăn! Tiếp theo là hai câu luận, Tú Xương vận dụng rất sáng tạo hai thành ngữ: “một duyên hai nợ” và “năm nắng mười mưa”, đối xứng nhau hài hòa, màu sắc dân gian đậm đà trong cảm nhận và ngôn ngữ biểu đạt:
“Một duyên hai nợ, âu đành phận,
Năm nắng, mười mưa dám quản công.”
“Duyên” là duyên số, duyên phận, là cái “nợ” đời mà bà Tú phải cam phận, chịu đựng. “Nắng”, “mưa” tượng trưng cho mọi vất vả, khổ cực. Các số từ trong câu thơ tăng dần lên: “một… hai… năm… mười… làm nổi rõ đức hi sinh thầm lặng của bà Tú, một người phụ nữ chịu thương, chịu khó vì sự ấm no, hạnh phúc của chồng con và gia đình. “Âu đành phận”, … “dám quản công” … giọng thơ nhiều xót xa, thương cảm, thương mình, thương gia cảnh nhiều éo le. Tóm lại, sáu câu thơ đầu bằng tấm lòng biết ơn và cảm phục, Tú Xương đã phác họa một vài nét rất chân thực và cảm động về hình ảnh bà Tú, người vợ hiền thảo của mình với bao đức tính đáng quý: đảm đang, tần tảo, chịu thương chịu khó, thầm lăng hi sinh cho hạnh phúc gia đình. Tú Xương thể hiện một tài năng điêu luyện trong sử dụng ngôn ngữ và sáng tạo hình ảnh. Các từ láy, các số từ, phép đối, thành ngữ và hình ảnh “thân cò” … đã tạo nên ấn tượng và sức hấp dẫn văn chương.Hai câu kết, Tú Xương sử dụng từ ngữ thông tục, lấy tiếng chửi nơi “mom sông” lúc “buổi đò đông” đưa vào thơ rất tự nhiên, bình dị. Ông tự trách mình:
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không!”
Trách mình " ăn lương vợ ", mà " ăn ở bạc ". Vai trò người chồng, người cha không giúp ích được gì, trái lại, họ càng " hờ hững " với gia đình. Lời tự trách sao mà chua xót vậy! Ta đã biết, Tú Xương có tài năng, nhưng công danh dang dở, thi cử trắc trở. Sống giữa một xã hội " dở Tây, dở ta ", công danh lận đận, lúc ấy " Ông Nghè, ông Cống cũng nằm co ", cho nên nhà thơ tự trách mình đồng thời cũng là trách cuộc đời bạc bẽo. Ông không xu thời để được " tối rượu bia, sáng sữa bò ". Hai câu kết là cả một nỗi niềm tâm tư về cuộc đời đầy buồn khổ, là tiếng nói của một trí thức giàu nhân cách, yêu nước, thương dân và thương gia cảnh nghèo. Tú Xương thương vợ cũng như là thương mình vậy: sự đau đớn bất lực của nhà thơ khi cảnh đời đổi thay! Bài thơ " Thương vợ " được sáng tác theo thể thơ lục bát. Ngôn ngữ thơ bình dị như là câu chuyện mưu sinh nơi " mom sông " của những người dân buôn bán nhỏ lẻ, cách đây một thế kỉ. Các chi tiết nghệ thuật chọn lọc vừa cá thể (bà Tú với " năm con, một chồng ") lại khái quát sâu sắc (người phụ nữ ngày xưa) . Hình tượng thơ hàm súc vừa gợi cảm: yêu vợ, thương con, nghĩ về gia cảnh thêm nỗi đau cuộc đời. " Thương vợ ’ " là bài thơ trữ tình nổi tiếng của Tú Xương kể về người vợ, người phụ nữ ngày xưa với biết bao đức tính cao đẹp, hình ảnh bà Tú được nhắc lại trong bài thơ thật gần gũi với người mẹ, người chị trong mỗi gia đình Việt Nam. Tú Xương chiếm một địa vị vẻ vang trong nền văn học Việt Nam. Tên tuổi ông sống mãi với non Côi, sông Vị.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
Thơ ca Việt Nam khi xưa, trong thời Trung đại được các nhà nho dùng để dạy đời, tỏ chí. Nhà nho xưa thể hiện chí làm trai, nợ công danh, chí kinh bang tế thế hay những ưu tư về cuộc đời, về thời đại mà ít khai thác đời sống tình cảm, đời tư thường nhật của mình, đặc biệt là viết về người phụ nữ. Trong thế kỉ XIX có Nguyễn Khuyến và Tú Xương đã làm được điều đó. Nhưng nổi tiếng hơn cả là những bài thơ của Tú Xương. Tú Xương không chỉ lên án đanh thép xã hội thực dân nửa phong kiến lúc bấy giờ bằng những bài thơ trào phúng sâu sắc mà còn để lại nhiều bài thơ trữ tình, nhất là về người vợ của ông. Thương vợ là một trong những bài thơ như thế, vừa sâu sắc, tình cảm, vừa hóm hỉnh, vui tươi.
Sách vở còn ghi lại, bà Tú có thời gian làm nghề buôn gạo, “bà Tú buôn gạo hàng đội hàng thúng chứ không có vốn buôn hàng thuyền” ( Xuân Diệu).
Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Bà Tú ở đầu bài thơ hiện lên với công việc buôn bán ở mom sông. “ Quanh năm” là thời gian đằng đẵng, tuần hoàn, ngày nối ngày, người mẹ, người vợ ấy vẫn tần tảo sớm hôm buôn bán để nuôi chồng, nuôi con. Bà không có cửa hàng hay quán xá mà buôn bán ở “ mom sông”, chỉ là chỗ đất nhô ra ở cửa sống, nơi đầy rẫy những nguy hiển, ba bề đều là nước, nơi ấy chênh vênh, không ổn định. Gợi cho người đọc sự không chắc chắn để bán buôn. Bà không chỉ bán một hay hai hôm mà quanh năm, ngày qua này, tháng tới tháng, từ năm này qua năm khác. Câu thơ đầu hiện lên hình ảnh bà Tú tần tảo, chịu khó mặc khó khăn và vất vả. “ Nuôi đủ năm con với một chồng” mặc dù việc buôn bán vất vả để nuôi sáu miệng ăn nhưng cũng chỉ đủ ăn. Không những chỉ nuôi những đứa con thơ dại mà còn phải nuôi cả người chồng, lo lắng cho việc khoa cử mỗi lần đi thi của ông. Chỉ kể đến tiền cho chồng đi thi có khi còn nhiều hơn để nuôi những đứa con ở nhà. Nhà thơ từng lên tiếng tố cáo bọn quan lại, quắc mắt khinh đời giờ coi mình là con người nhỏ bé được bà Tú. Hai câu đề cho thấy sự vất vả nhưng rất đảm đang gánh vác và yêu thương chồng con mới dám hi sinh, chịu đựng nhọc nhằn. Đồng thời, đằng sau những vất vả của bà Tú là sự biết ơn sâu sắc của chồng và con với bà vì đã không đỡ đần được sự nhọc nhằn của bà.
Hình ảnh bà Tú lại hiện lên ở hai câu thực hết sức chân thực và sâu sắc:
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông
Trong hai câu thơ trên, hình ảnh độc đáo và gần gũi với đời sống hàng ngày cũng như đời sống văn thơ dân gian nhất chính là hình ảnh con cò. Trong thơ Tú Xương, con cò hiện lên không phải là con cò mà được diễn đạt bằng từ “ thân cò”. “ Lặn lội thân cò” chính là sự vất vả, đơn chiếc khi kiếm ăn một mình, cực nhọc biết bao khi “ quãng vắng” nơi vắng vẻ, ít người còn rất nguy hiểm. “ Thân cò” ấy lại “ eo sèo”, liều lĩnh, giành giật trong làm ăn vì miếng cơm manh áo của chồng con trong “ buổi đò đông”. “Thân cò” ấy lặn lội, lam lũ cả một đời chính là hình ảnh biểu tượng của người phụ nữ ân cần, chăm chỉ làm vụng, lam lũ, vất vả. Thân cò ấy chính là thân phận, là sự mỏng manh trước cảnh đời khắc nghiệt. Nghệ thuật đảo trật tự cú pháp đã làm nổi bật hình ảnh “ thân cò” lặn lội khi quãng vắng, eo sèo buổi đò đông. Một “ thân cò” gầy yếu nhưng lam lũ, vất vả. Qua bốn câu đầu tiên, hình ảnh bà Tú vẫn luôn là người phụ nữ vất vả, chịu đựng cùng với sự hi sinh lớn lao dành cho chồng con mình.
Tuy gian khổ là vậy, nhưng bà Tú không buông một lời oán trách mà luôn chịu đựng, kiên cường:
Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công
Nói về cuộc sống gia đình mình Tú Xương đã dùng từ ngữ chân thực mà sâu sắc. “ Duyên” và “ nợ” là hai từ có ý nghĩa trái ngược nhau để chỉ hạnh phúc gia đình. Nếu cuộc sống hạnh phúc, tốt đẹp thì là cái duyên, còn cực nhục, khổ đau thì là nợ. Cuộc đời bà Tú duyên một mà nợ những hai. Mặc dù biết vậy nhưng cũng “ âu đành phận” mà không một lời oán trách. Hình ảnh người phụ nữ ấy lại hiện lên với sự tần tảo, vất vả muôn phần : “ Năm nắng mười mưa dám quản công”. Sự vất vả ấy đâu “ dám quản công” chỉ “ âu đành phận”. Tú Xương đã sử dụng rất khéo số từ trong thơ của mình, vừa theo thứ tự tăng dần vừa đối nhau: một, hai, năm, mười, gợi được những khó khăn chồng chất ngày một tăng dần. Đồng thời câu thơ cũng cho thấy sự kiên cường và phi thường của người vợ, người mẹ đã gánh vác, chấp nhận tất cả để lo lắng, săn sóc cho chồng con mình thật tốt.
Sau tất cả sự khó khăn ấy là hình ảnh người chồng tuy không thể làm được gì to lớn giúp vợ nhưng rất mực yêu thương và tài hoa:
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không.
Xem tiếp: Phân tích Thương vợ học sinh giỏi (toploigiai.vn)
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
Bảng tin