

Hãy luôn nhớ cảm ơn và vote 5*
nếu câu trả lời hữu ích nhé!

Đây là câu trả lời đã được xác thực
Câu trả lời được xác thực chứa thông tin chính xác và đáng tin cậy, được xác nhận hoặc trả lời bởi các chuyên gia, giáo viên hàng đầu của chúng tôi.
Câu 1:
Ông đồ - Vũ Đình Liên
Mạch cảm xúc: Ông đồ thời thịnh thế, ông đồ thời suy tàn và khép lại là cảm nghĩ của nhà thơ
Câu 2:
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực Tàu, giấy đỏ
Bên phố đông người qua
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài:
“Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa, rồng bay”
Nội dung: Hình ảnh ông đồ thời thịnh thế và sự quan tâm của mọi người dành cho ông được phản ánh rõ nét
Câu 3: Có ý nghĩa nhấn mạnh sự quen thuộc
Dấu ngoặc kép dùng để trích dẫn lời nói trực tiếp
Câu 4:
Tăng sức gợi hình gợi cảm, tạo nhịp điệu cho câu thơ
Nhấn mạnh tài năng của ông đồ
Sự yêu mến và kính trọng của tác giả
Câu 5:
Hình ảnh ông đồ trong khổ thơ trên được nhà văn khắc họa rất rõ nét. Nền cảnh xuất hiện của ông là khi Tết đến, xuân về, tươi vui, náo nức trên mọi nẻo đường. Với hoán dụ “hoa đào nở”, bứ c tranh xuân trở nên rộn ràng, náo nức hơn bao giờ hết. Trong khổ thơ, cụm từ “đông người qua” đã góp phần cho thấy ông đồ rất được yêu mến. Ông xuất hiện rạng ngời trong không khí Tết đến xuân về, trong sự tươi tắn của cảnh vật. Và chính điều đó đã khiến ta thấy ông được mến mộ ra sao. PHó từ “Lại” cho ta thấy sự xuất hiện của ông đồ trở thành thường xuyên, thông lệ. Và khi gắn với cách gọi "ông đồ già", bạn đọc như thấy được tuổi tác của ông và sự song hành của ông cùng văn hóa dân tộc. Những vật dụng mực tàu, giấy đỏ làm nên nét đẹp của mùa xuân và cùng ông viế nên bao con chữ. Để rồi, trong khổ thơ thứ hai, ông đồ hiện lên trong sự ngưỡng mộ, ngợi ca của mọi người. Ta thấy được nhiều người xếp hàng chờ ông cho chữ. Hình ảnh ông đồ xuất hiện như thúc giục mỗi người hãy nhìn về xuân, nhìn về Tết và nhìn về văn hóa truyền thống. Việc ông “hoa tay thảo những nét” góp phần tô đậm tài năng và vẻ đẹp của văn hóa cho chữ.
Câu cầu khiến in đậm
Câu 6:
Đây là một ý kiến đúng đắn. vì khổ ba đã phản ánh thực tại khi ông đồ dần bị lãng quên. Bức tranh ông và xuân có cả sự xuất hiện của ngoại cảnh với những món đồ đã im lìm. Tả cảnh ngụ tình được dùng trong khổ thơ và mở ra bao mạch tâm trạng.
Câu 7:
điệp từ “mỗi” nhấn mạnh sự vắng dần của nguời thuê viết cùng với thời gian.
Câu hỏi tu từ “người thuê viết nay đâu?” bộc lộ cảm xúc buồn, tiếc nuối cho thời huy hoàng đã qua của ông đồ
Biện pháp tu từ nhân hoá qua từ “buồn, sầu” cho ta thấy được giấy đỏ đã phai nhạt theo năm tháng, mực lắng lại vì lâu ngày
Câu 8:
Khung cảnh thiên nhiên ngày xuân tràn ngập xúc cảm “Lá vàng rơi trên giấy/ Ngoài giời mưa bụi bay” được Vũ Đình Liên khắc họa rất sinh động trong khổ thơ thứ tư của bài. Hình ảnh lá vàng làm câu thơ như mang theo sự man mác buồn. Lá vàng phủ kín trên giấy nhưng ông đồ không buồn nhặt vì không có ai thuê ông viết chữ, nỗi buồn lan sang vạn vật. Sắc vàng của lá lìa cành hiện hữu trong ngày đầu năm mới báo hiệu sự bất thường sắp xảy đến, lá vàng rơi là sự kết thúc của một vòng đời, là biểu tượng của sự tàn lụi khiến chúng ta thương cảm cho hoàn cảnh của ông đồ. Giá trị văn hóa dường như đã và đang bị rơi vào quên lãng. Mưa xuân nhỏ nhưng mang theo nỗi buồn mênh mang trong thi nhân. Trong khổ thơ này, Vũ Đình Liên dùng thật đắt bút pháp tả cảnh ngụ tình nhằm diễn tả nỗi cô đơn, buồn tủi, tuyệt vọng của ông đồ và sự xót xa, ngập ngùi, tiếc nuối của nhà thơ.
Dấu ngoặc kép đánh dấu phần trích thơ
Câu 9:
Tình cảmxót xa, ngập ngùi, tiếc nuối của nhà thơ dành cho ông đồ, dành cho nét đẹp văn hóa dân tộc.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
Câu 1:
-Bài thơ: Ông Đồ
-Của tác giả: Vũ Đình Liên
-Mạch cảm xúc của bài thơ: Mạch cảm xúc phát triển theo thời gian, từ cảm xúc về hình ảnh những ông đồ già Nho học thời còn thịnh hành cho đến hình ảnh những ông đồ khi suy vi và cuối cùng là tâm tư thầm kín, niềm tiếc thương của tác giả gửi gắm.
Câu 2:
Chép tiếp
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
“Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa, rồng bay”.
-Nội dung 2 khổ thơ: Tác giả gợi ra hình ảnh Ông Đồ xưa
Câu 3:
a)Mỗi năm … lại thấy” có nghĩa là năm nào cũng thế, cứ mội độ hoa đào nở rộ – báo hiệu thời khắc của ngày hội xuân đã tới là ông đồ với bút nghiên, giấy đỏ lại xuất hiện.
b)- Nét bút: phượng múa, rồng bay.
-> Ông đồ dầy tài năng, mọi người ca ngợi về các tài năng cũng là điểu đáng quý trọng trong truyền thuyết, văn hóa dân tộc.
-> Do đó cho thấy được câu nói
'' Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay''
Câu 4:
nét chữ của ông đồ được so sánh như rồng bay phượng múa
tác dụng : gợi lên nét đẹp của 1 truyền thống văn hóa lâu đời
Câu 4:
Có ý kiến cho rằng, hai khổ thơ đầu của bài thơ ông đồ đã dựng lên một bức trai hài hòa tuyệt diệu giữa thiên nhiên - con người - thời thế. Thật vậy, khổ thơ đầu gợi nên cảnh thiên nhiên, địa điểm nơi ông đồ làm việc. Đó là vào mùa xuân - mùa đẹp nhất trong năm với cảnh thiên nhiên là "hoa đào nở". Hình ảnh hoa đào nở tươi thắm nay lại thêm “mực tàu giấy đỏ” làm mọi nét vẽ trong bức tranh tả cảnh ông đồ thời kỳ huy hoàng này đậm dần lên, rõ nét, tươi vui, tràn đầy sức sống. Với từ “lại”, tác giả đã cho thấy sự gắn bó lâu dài giữa ông đồ với mùa xuân, công việc viết chữ của ông đồ không chỉ diễn ra trong một năm mà đã từ mùa xuân năm này qua mùa xuân năm khác. Thời thế của ông đồ được thể hiện ở khổ thơ thứ hai. Bao nhiêu người đều quan tâm tới ông đồ và thưởng thức tài năng của ông. Nhà thơ còn dùng nghệ thuật so sánh " Hoa tay thảo những nét như phượng múa rồng bay" làm toát lên khí chất trong từng nét chữ của ông đồ. Qua đó, tác giả gửi gắm sự kính trọng, ngưỡng mộ, nâng niu nét đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc. Tóm lại, hai khổ thơ đầu của bài thơ ông đồ đã dựng lên một bức trai hài hòa tuyệt diệu giữa thiên nhiên - con người - thời thế.
Câu 5:
Tất cả mọi thứ rồi cũng sẽ lùi dần vào dĩ vãng, để lại cho chúng ta những niềm tiếc thương, hoài niệm. Bắt nguồn từ cảm hứng ấy, Vũ Đình Liên đã viết lên Ông đồ - một tác phẩm chứa đựng sự hoài cổ, day dứt về một lớp người đã từng vang bóng một thời.
Ông đồ là những nhà nho, thi cử không đỗ đạt làm quan mà nhận dạy chữ Thánh hiền. Ông đồ xuất hiện trong bài thơ của Vũ Đình Liên là một người như thế! Ông xuất hiện mỗi độ hoa đào nở, cùng với giấy đỏ và nghiên mực, bút lông viết những câu đối chúc mừng năm mới. Ông đã có những ngày tháng vang danh khi Nho học còn được trọng vọng. Người người nhà nhà đều đến xem, đến thuê ông đồ viết những con chữ, câu đối "rồng bay phượng múa" mang về nhà như một điều may mắn.
Thế nhưng, khi phương Tây ào tới như một cơn gió, mang theo những lớp văn hóa mới lạ thì ông đồ chính thức bị gạt khỏi xã hội. Nho học bị lụi tàn, ông đồ trở thành một kẻ thừa trong xã hội, "qua đường không ai hay", dù ông vẫn ngồi đó, giữa phố đông đúc người qua lại. Câu hỏi "người thuê viết nay đâu?" cất lên trong sự ngơ ngác, tiếc nuối, cảm thương của Vũ Đình Liên dành cho lớp Nho sĩ cuối mùa này. Ông đồ buồn bã, ngắm dòng người qua lại trong nỗi sầu vô tận. Nỗi buồn, nỗi sầu ấy của ông thấm sang cảnh vật, thấm sau cái nỗi buồn tê tái của nhân tình thế thái:
"Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu"
Câu 6:
TRẢ LỜI
Khổ thứ 3 trong bài thơ "Ông đồ" là khoảng thời gian Ông đồ vào thời tàn. Khi nên văn hóa phương Tây xâm nhập đã làm những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc bị mai một. Tác giả đã miêu tả một khung cảnh quạnh hiu,vắng vẻ đến thê lương. Thời gian đã cuốn trôi đi những gì tươi đẹp của quá khứ khiến con người không khỏi xót xa, tiếc nuối. Câu hỏi tu từ: “Người thuê viết nay đâu?” vang lên với bao đau đớn. Thực tại thú chơi chữ đã không còn được ưa chuộng, người chơi chữ, mua chữ cũng ít dần đi theo năm tháng. Nỗi buồn đã nhuốm sang cả cảnh vật, sang cả những gì vô tri vô giác. Giấy đỏ cũng biết buồn nên đã chẳng còn thắm, màu giấy đã phôi phai đi rồi nhạt dần, thỏi mực đã mài nhưng không được dùng đến nay cũng đọng lại trong nghiên. Biện pháp nhân hóa đã thể hiện tâm trạng u uất của ông đồ và cũng là sự xót xa, thương cảm của nhà thơ. Tâm trạng buồn bã cô đơn thấm dần từ lòng người sang cảnh vật. Không ai thuê viết “giấy đỏ buồn không thắm và “mực đọng trong nghiên sầu” làm tăng nỗi buồn tủi cô đơn của ông đồ và thể hiện được sự cảm thông của tác giả. Nỗi buồn từ lòng người thấm sâu, tỏa rộng vào không gian cảnh vật. Dưới trời mưa bụi "Ông đồ vần ngồi đấy" như bất động. Lẻ loi và cô đơn: "Qua đường không ai hay". Cái vàng của lá, cái nhạt nhòa của giấy, của mưa bụi đầy trời và cơn mưa trong lòng người. Một nỗi buồn lê thê... Tình cảnh ông Đồ rất đáng thương, tác giả đã dành nỗi thương cảm đanh cho những con người như ông Đồ, đang dần bị lãng quên và một nền văn học sắp bị suy tàn.
Câu 7
Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Hai từ “mỗi” điệp lại trong một câu thơ diễn tả bước đi cảu thời gian.Nếu như trước đây : “Mỗi năm hoa đào nở” lại đưa đến cho ông đồ già “bao nhiêu người thuê viết” thì giờ đây “mỗi năm” lại “mỗi vắng”. Nhịp đi của thời gian bao hàm cả sự mài mòn, suy thoái.Thanh “sắc” kết hợp với âm “ắng” khép lại câu thứ nhất như một sự hẫng hụt, chênh chao, như đôi mắt nhìn lên đầy băn khoăn. Để rồi một cách tự nhiên, câu thứ hai phải bật ra thành câu hỏi: Những người thuê ông đồ viết chữ khi xưa nay đâu cả rồi? Câu hỏi buông ra không bao giờ có lời đáp nên cứ chạp chớn, cứ ám ảnh mãi. Người thuê viết không còn, giấy đỏ, mực thơm không được dùng đến nên:
Giáy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu
Nỗi buồn của con người khiến các vật vô tri vô giác cũng như buồn lây. Mực ssầu tủi đọng lại trong nghiên, giấy điều phôi pha buồn không muốn thắm.Biện pháp nhân hoá góp phần nhấn mạnh tâm trạng của con người. Bởi chẳng phải mực và giấy là những đồ vật gắn bó thân thiết nhất với ông đồ hay sao?
Câu 8
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
Bảng tin