

Hãy luôn nhớ cảm ơn và vote 5*
nếu câu trả lời hữu ích nhé!

Đây là câu trả lời đã được xác thực
Câu trả lời được xác thực chứa thông tin chính xác và đáng tin cậy, được xác nhận hoặc trả lời bởi các chuyên gia, giáo viên hàng đầu của chúng tôi.
Dưới bóng dừa xanh mát của miền Tây sông nước, nép mình bên dòng sông Cửu Long hiền hòa là nhà thờ trang nghiêm - nơi yên nghỉ của một tâm hồn nghệ sĩ tài hoa, một nhà yêu nước vĩ đại – khu di tích lăng mộ Nguyễn Đình Chiểu. Nơi đây không chỉ là một địa điểm du lịch mang sắc thái tâm linh mà còn là một bảo tàng sống động, lưu giữ những dấu ấn lịch sử và văn hóa đặc sắc, là nơi để tưởng nhớ và tri ân danh nhân văn hóa của dân tộc.
Khu di tích tọa lạc tại xã An Đức, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Với diện tích rộng lớn, quần thể kiến trúc bao gồm nhiều công trình độc đáo, hài hòa với thiên nhiên như: cổng tam quan, nhà bia, đền thờ mới, đền thờ cũ và khu mộ. Bước vào khu di tích, ta dễ dàng ấn tượng với cổng tam quan với kiến trúc đồ sộ, độc đáo. Tiến dần vào phía trong là nhà bia - nơi khắc ghi những câu thơ bất hủ của Nguyễn Đình Chiểu, tựa như một lời tri ân, gợi nhắc về tài năng và sự nghiệp sáng tác của ông. Tiếp theo ta có thể quan sát thấy được đền thờ mới và cũ tại khu di tích xây dựng với lối kiến trúc truyền thống, với những đường nét văn hoa văn tinh xảo. Đặc biệt, khu mộ của Nguyễn Đình Chiểu còn được bao quanh bởi những bóng cây xanh mát, tạo nên một không gian yên tĩnh, thanh bình.
Nguyễn Đình Chiểu không chỉ là một nhà thơ mà còn là một thầy thuốc tài ba và một nhà giáo mẫu mực. Ông đã để lại một khối lượng tác phẩm đồ sộ, đặc biệt là các truyện thơ như "Lương Sơn Bá - Chúc Anh Đài", "Truyện Kiều"... Những tác phẩm của ông không chỉ mang giá trị văn học mà còn phản ánh sâu sắc cuộc sống, tư tưởng và tình cảm của con người Việt Nam thời bấy giờ. Cuộc đời và sự nghiệp của ông là tấm gương sáng ngời về lòng yêu nước, tinh thần nhân hậu và tài năng sáng tạo, đã trở thành nguồn cảm hứng cho nhiều thế hệ sau.
Khu di tích lăng mộ Nguyễn Đình Chiểu không chỉ là nơi để tưởng nhớ mà còn là một địa điểm văn hóa, du lịch hấp dẫn. Du khách đến đây có thể tham quan các công trình kiến trúc, đọc thơ, tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp của ông. Hàng năm, tại đây diễn ra các lễ hội kỷ niệm ngày sinh, ngày mất của nhà thơ, thu hút đông đảo người dân và du khách thập phương ghé thăm. Bên cạnh đó, khu di tích còn tổ chức nhiều hoạt động văn hóa như tọa đàm, triển lãm, nhằm quảng bá hình ảnh và tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu đến đông đảo công chúng.
Khu di tích lăng mộ Nguyễn Đình Chiểu không chỉ là một di sản văn hóa mà còn là một biểu tượng tinh thần của dân tộc. Nơi đây giáo dục cho thế hệ trẻ lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc và ý thức bảo tồn di sản văn hóa. Khu di tích cũng là nơi để mọi người tìm về những giá trị lịch sử văn hóa, đặc biệt là thơ ca dân tộc, tìm thấy sự bình yên trong tâm hồn giữa chốn xô bồ tấp nập.
Đến với khu di tích lăng mộ Nguyễn Đình Chiểu, du khách sẽ được hòa mình vào không gian văn hóa đặc sắc, tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp của một danh nhân văn hóa lớn của dân tộc. Bên cạnh đó, nhận thức sâu sắc về việc bảo tồn và phát huy giá trị của khu di tích là trách nhiệm của mỗi người dân, nhằm gìn giữ và phát huy truyền thống văn hóa dân tộc.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
Di tích lịch sử Mộ và Khu tưởng niệm Nguyễn Đình Chiểu
Di tích Mộ và Khu tưởng niệm Nguyễn Đình Chiểu (Lăng, mộ Nguyễn Đình Chiểu), thuộc địa bàn xã An Đức, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre, là nơi thờ và an táng nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu, cùng vợ là Lê Thị Điền và con gái là Nguyễn Thị Ngọc Khuê (Sương Nguyệt Anh).
Nguyễn Đình Chiểu (1822 - 1888) là đại diện tiêu biểu cho lớp sĩ phu yêu nước dùng văn thơ làm phương tiện đấu tranh với thực dân Pháp xâm lược bằng tư tưởng. Hầu hết tác phẩm văn, thơ của ông đều viết bằng chữ Nôm, vừa thể hiện tính chiến đấu bền bỉ, vừa mang nặng nỗi lòng về vận mệnh dân tộc và tình yêu thương con người.
Nguyễn Đình Chiểu đóng một vai trò quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Pháp, nhưng không thể làm như Trương Định đem quân đồn điền kháng chiến, như Trần Thiện Chánh chiêu mộ quân nghĩa dũng chống xâm lăng, như Nguyễn Thông tòng quân đánh giặc..., Ông chiến đấu bằng ngòi bút, hòa mình trong cuộc chiến đấu của nhân dân và trở thành người phát ngôn của phong trào yêu nước chống Pháp. Ông là nhà thơ Việt Nam đầu tiên nói đến chiến tranh nhân dân, đề cao vai trò người nông dân, trong các cuộc khởi nghĩa chống Pháp với ý thức về nhiệm vụ và quyền lợi của mình, họ cần chiến đấu để bảo vệ “tấc đất ngọn rau, bát cơm manh áo” của chính mình, bảo vệ chủ quyền đất nước thiêng liêng. Trong những tác phẩm nổi tiếng như “Lục Vân Tiên”,“Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”, “Lục tích sĩ dân trận vong”.., ông ca ngợi tinh thần nghĩa khí và những tấm gương chiến đấu anh hùng của những nghĩa sĩ nông dân. Đối với các lãnh tụ nghĩa quân như Trương Định, Phan Ngọc Tòng,... Nguyễn Đình Chiểu đã dành những lời thơ biểu đạt nghệ thuật, tính trữ tình và anh hùng ca. Ông đã thấy được mối quan hệ giữa lãnh tụ nghĩa quân với quần chúng nhân dân, tình thương của nghĩa quân đối với lãnh tụ cũng như lòng ưu ái của lãnh tụ với nghĩa quân. Đó là quan niệm mới về anh hùng của Nguyễn Đình Chiểu, rất khác với các quan niệm phong kiến về trung quân ái quốc trước đó.
Di tích Mộ và Khu tưởng niệm Nguyễn Đình Chiểu có tổng diện tích là 14.187,9m2, bao gồm các hạng mục chính: nhà bia, đền thờ mới, đền thờ cũ, khu mộ.
- Nhà bia: được xây dựng năm 2000 - 2002 bằng bê tông cốt thép, cao 12m có hai tầng mái dán ngói, nền lát gạch men. Mặt ngoài đắp nổi hoa lá cách điệu, mặt trong đắp nổi tứ linh. Đỉnh mái đắp nổi biểu tượng bút lông. Chính giữa là tấm bia bằng đá xanh, nguyên khối, có kích thước 2,65m x 2,7m x 1,8m. Mặt trước khắc bài văn bia ca ngợi công đức của Nguyễn Đình Chiểu, mặt sau khắc tóm tắt tiểu sử của nhà thơ. Bài văn bia này đạt giải Ba (không có giải Nhất, Nhì) trong cuộc thi viết văn bia do Ủy ban nhân dân tỉnh Bến Tre tổ chức, được khắc vào năm 2003.
- Đền thờ mới: được xây dựng vào năm 2000 - 2002, cao 21m, dựng bằng bê tông cốt thép theo hình tròn, nền lát gạch ceramic, mái đổ bê tông dán ngói âm dương màu xanh, trên các cửa ra vào trang trí đắp nổi một số hoa văn cách điệu như: hoa sen, cuốn thư, ngòi bút, hoa lá... trên trần trang trí hoa văn trống đồng đắp nổi. Đền thờ gồm hai tầng với ba tầng mái. Tầng dưới trưng bày một số hình ảnh Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, một số đoàn khách nước ngoài, nhân dân trong nước đến thăm viếng. Tầng trên đặt tượng Nguyễn Đình Chiểu bằng đồng cao 1,6m, nặng 1,2 tấn. Trên bốn cột ở tứ trụ có 4 liễn áp cột bằng gỗ chạm trổ hoa văn tinh xảo, trong đó có hai câu thơ của ông trong tác phẩm “Dương Từ - Hà Mậu”:
Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm,
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà.
Và câu đối của ông Nguyễn Văn Châu, một người con của Bến Tre viết ca ngợi công đức Nguyễn Đình Chiểu:
Nhân nghĩa sáng ngời vầng nhật nguyệt,
Văn chương tỏ rạng ánh sao Khuê.
Hai bên tượng Nguyễn Đình Chiểu là hai mảng phù điêu. Phù điêu bên trái miêu tả cảnh ông đọc bài văn tế Lục tỉnh sỹ dân trận vong tại Chợ Đập (Ba Tri) năm 1883. Phù điêu bên phải miêu tả trận đánh đầu tiên của người giáo làng Phan Ngọc Tòng lãnh đạo nghĩa quân với vũ khí thô sơ đánh Pháp ở Giồng Gạch (An Hiệp) khi chúng hành quân lấn chiếm vùng đất Ba Tri vào đêm 17 tháng 11 năm 1868.
- Đền thờ cũ: được xây dựng năm 1972, diện tích 84m2, gồm hai tầng mái, lợp ngói âm dương màu nâu, tường gạch, nền lát gạch bông theo kiến trúc truyền thống. Trên nóc trang trí hoa văn rồng - mây cách điệu. Chính giữa có bàn thờ bằng bê tông dán gạch men. Hai cây cột cái đắp nổi câu thơ: “Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm/Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà” theo kiểu thư pháp được sơn màu vàng trên nền đỏ. Nội thất trưng bày một số hình ảnh, tư liệu về các vị thủ lĩnh và phong trào kháng Pháp của nghĩa quân Nam Kỳ cuối thế kỷ XIX.
- Khu mộ: được tôn tạo năm 1958, gồm mộ cụ Đồ Chiểu, mộ cụ bà và mộ con gái Nguyễn Thị Ngọc Khuê (Sương Nguyệt Anh) - nữ sĩ, chủ bút báo Nữ giới chung - tờ báo phụ nữ đầu tiên của Việt Nam. Mộ Cụ Nguyễn Đình Chiểu trên bia có khắc chữ Nhật (日), mộ cụ bà trên bia có khắc chữ Nguyệt (月).
Tại di tích hiện có một phòng trưng bày một số hình ảnh lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các đoàn khách trong nước và nước ngoài, nhân dân trong và ngoài tỉnh đến thăm viếng... Phòng trưng bày còn có một số tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Đình Chiểu như: Lục Vân Tiên, Dương Từ - Hà Mậu, Ngư Tiều y thuật vấn đáp, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc,... bằng chữ Hán Nôm và một số tài liệu của các nhà nghiên cứu, sưu tầm, nêu bật giá trị tư tưởng, nhân cách và nội dung các tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu.
Hằng năm, chính quyền và nhân dân tỉnh Bến Tre đều tổ chức Lễ hội truyền thống văn hóa vào ngày 01 và ngày 03 tháng Bảy (ngày sinh và ngày mất của Nguyễn Đình Chiểu). Lễ hội với nhiều chương trình phong phú như: lễ dâng hương, đọc văn tế, nói thơ Vân Tiên, thi hóa trang Lục Vân Tiên - Kiều Nguyệt Nga, trích đoạn cải lương Lục Vân Tiên - Kiều Nguyệt Nga, thi mâm xôi ngày hội, mâm cơm ngày giỗ, kéo co, nhảy bao bố, đập niêu... Lễ hội là dịp để ôn lại truyền thống yêu nước của dân tộc cho thế hệ trẻ hôm nay và mai sau noi theo, học tập về sự nghiệp, những giá trị tư tưởng, nhân cách, đạo đức của nhà giáo, người thầy thuốc và nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu. Đây cũng là dịp để nhân dân vui chơi, giải trí, sinh hoạt văn hóa, bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các bậc tiền nhân, đồng thời, góp phần tích cực vào việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, truyền thống văn hóa của địa phương.
Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu là một hiện tượng văn hóa của Việt Nam thế kỷ XIX. Những tác phẩm của ông có ảnh hưởng sâu sắc và sức sống mãnh liệt trong xã hội đương thời và đến tận hôm nay. Ông là một trong những người khai sáng dòng văn học yêu nước chống Pháp ở Việt Nam nửa sau thế kỷ XIX, đồng thời, đánh dấu bước phát triển mới của văn hóa nói chung và văn học nói riêng của Nam Kỳ lục tỉnh, thể hiện lý tưởng xã hội tiến bộ và khuynh hướng thẩm mỹ - tư tưởng tích cực. Lý tưởng nhân nghĩa, đạo đức của ông là sự tiếp nối truyền thống dân chủ và nhân đạo của dân tộc trong một giai đoạn lịch sử quan trọng. Xu thế “về nguồn” trong một bộ phận của văn hóa địa phương vùng đất Nam Kỳ lục tỉnh trở nên mạnh mẽ từ sau 1858 và đã hòa chung với dòng văn hóa dân tộc trước hết ở tư tưởng yêu nước, khía cạnh quan trọng nhất trong nền văn hóa Việt Nam. Tư tưởng yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu tiêu biểu cho ý chí độc lập của nhân dân ta ở thế kỷ XIX và cũng tiêu biểu cho truyền thống yêu nước, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc Việt Nam.
Với giá trị lịch sử, văn hóa đặc biệt, di tích Mộ và Khu tưởng niệm Nguyễn Đình Chiểu (huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre) được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt (theo Quyết định số 2499/QĐ-TTg ngày 22 tháng 12 năm 2016)./.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
Giữa không gian thanh bình của miền Tây Nam Bộ, nơi những rặng dừa xanh mát trải dài bên dòng sông Cửu Long hiền hòa, Mộ và Khu tưởng niệm Nguyễn Đình Chiểu hiện lên như một minh chứng sống động cho tinh thần yêu nước bất khuất và tài năng nghệ thuật của dân tộc Việt Nam. Đây không chỉ là nơi an nghỉ của nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu, mà còn là một công trình văn hóa, lịch sử độc đáo, là điểm đến thiêng liêng để các thế hệ hôm nay và mai sau tri ân những đóng góp to lớn của ông cho dân tộc. Di tích Mộ và Khu tưởng niệm Nguyễn Đình Chiểu – Nơi hội tụ giá trị lịch sử, văn hóa và tinh thần yêu nước.
Nằm tại xã An Đức, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre, khu di tích có tổng diện tích 14.187,9m², được bao bọc bởi khung cảnh thiên nhiên yên ả, tạo nên một không gian hài hòa giữa kiến trúc và môi trường xung quanh. Cổng tam quan đồ sộ chào đón du khách bằng vẻ uy nghiêm, dẫn lối vào quần thể các công trình gồm nhà bia, đền thờ mới, đền thờ cũ và khu mộ. Những công trình này được xây dựng tinh tế, vừa mang nét cổ kính, trang nghiêm vừa kết hợp những chi tiết hiện đại, tạo nên sức hút độc đáo.
Ngay tại trung tâm khu di tích, nhà bia trang nghiêm khắc ghi những câu thơ bất hủ của Nguyễn Đình Chiểu. Đây không chỉ là biểu tượng tri ân dành cho nhà thơ, mà còn như một lời nhắc nhở về sự hy sinh và lý tưởng cao đẹp của ông. Đền thờ mới và đền thờ cũ mang kiến trúc truyền thống với mái ngói âm dương, các họa tiết hoa văn tinh xảo thể hiện sự tôn kính đối với nhà thơ. Khu mộ của Nguyễn Đình Chiểu, cùng mộ của vợ ông là bà Lê Thị Điền và con gái Nguyễn Thị Ngọc Khuê (Sương Nguyệt Anh), nằm dưới bóng cây xanh mát, tạo nên không gian yên tĩnh, thanh bình, như một góc nhỏ giữ gìn hồn thiêng của lịch sử.
Nguyễn Đình Chiểu (1822–1888) không chỉ là một nhà thơ mà còn là một nhà giáo, thầy thuốc mẫu mực, người đã cống hiến trọn đời cho sự nghiệp yêu nước và giáo dục nhân cách con người. Sinh ra trong thời kỳ đất nước bị xâm lược, ông đã dùng văn chương làm vũ khí chiến đấu với quân thù, trở thành biểu tượng tiêu biểu của giới sĩ phu Nam Bộ trong phong trào kháng Pháp. Những tác phẩm nổi tiếng như Lục Vân Tiên, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, và Dương Từ – Hà Mậu không chỉ ca ngợi tinh thần yêu nước mà còn nhấn mạnh vai trò của nhân dân, đặc biệt là tầng lớp nông dân, trong cuộc đấu tranh bảo vệ tổ quốc. Với ông, người anh hùng không chỉ là những vị lãnh đạo mà còn là những con người bình dị, sẵn sàng hy sinh để bảo vệ “tấc đất ngọn rau, bát cơm manh áo”.
Bên cạnh giá trị văn học, Nguyễn Đình Chiểu còn là một hiện tượng văn hóa độc đáo. Ông là người đầu tiên đề cao tư tưởng chiến tranh nhân dân và khắc họa vai trò của tầng lớp nông dân trong văn chương. Quan niệm về anh hùng của ông không còn bó hẹp trong khuôn khổ trung quân ái quốc mà mở rộng ra toàn thể nhân dân, những con người đứng lên bảo vệ đất nước từ tận đáy lòng mình. Điều này đã đặt nền móng cho dòng văn học yêu nước chống Pháp, đánh dấu bước chuyển mình quan trọng trong lịch sử văn học Việt Nam.
Không chỉ là một điểm đến để tìm hiểu lịch sử, Khu tưởng niệm Nguyễn Đình Chiểu còn mang đậm sắc thái văn hóa và tâm linh. Hàng năm, vào các ngày 1–3 tháng 7, lễ hội truyền thống kỷ niệm ngày sinh và ngày mất của ông được tổ chức với nhiều hoạt động phong phú như dâng hương, đọc văn tế, thi hóa trang nhân vật trong Lục Vân Tiên và các trò chơi dân gian. Đây là dịp để ôn lại truyền thống yêu nước, giáo dục thế hệ trẻ về lòng tự hào dân tộc và khát vọng bảo vệ chủ quyền đất nước. Ngoài ra, khu di tích còn là nơi tổ chức các tọa đàm, triển lãm giới thiệu các tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu, giúp công chúng hiểu thêm về cuộc đời, tư tưởng và tài năng của nhà thơ.
Đến với Mộ và Khu tưởng niệm Nguyễn Đình Chiểu, du khách không chỉ được tìm hiểu về một nhân cách lớn, mà còn cảm nhận được sự hòa quyện giữa con người và thiên nhiên. Đây là nơi để lắng lòng, chiêm nghiệm về những giá trị tốt đẹp của dân tộc, đồng thời khơi dậy trách nhiệm bảo tồn di sản văn hóa. Với ý nghĩa lịch sử, văn hóa đặc biệt, khu di tích đã được xếp hạng là Di tích quốc gia đặc biệt năm 2016, xứng đáng là niềm tự hào của người dân Nam Bộ nói riêng và cả dân tộc Việt Nam nói chung.
Khu di tích lăng mộ Nguyễn Đình Chiểu không chỉ là biểu tượng tinh thần của dân tộc mà còn là một điểm nhấn văn hóa của vùng đất Nam Bộ. Những giá trị tư tưởng và nhân cách của ông là nguồn cảm hứng bất tận, mãi trường tồn cùng dân tộc, khẳng định sức mạnh của tinh thần yêu nước trong lịch sử và hiện tại.
Bảng tin