

Hãy luôn nhớ cảm ơn và vote 5*
nếu câu trả lời hữu ích nhé!
Tố Hữu là một trong số những gương mặt tiêu biểu của thơ ca cách mạng Việt Nam. Thơ ông là đỉnh cao của khuynh hướng trữ tình - chính trị, mang đậm khuynh hướng sử thi, cảm hứng lãng mạn và tinh thần dân tộc. Và có thể nói, Việt Bắc là một trong số những sáng tác tiêu biểu nhất cho đặc điểm thơ Tố Hữu. "Việt Bắc" là khúc anh hùng ca và cũng là khúc tình ca về cách mạng, về kháng chiến và về con người. Và có lẽ, những ai đã đọc Việt Bắc sẽ không thể nào quên được vẻ đẹp của bức tranh tứ bình trong bài thơ - vẻ đẹp với sự gắn bó, hòa quyện giữa thiên nhiên và con người Việt Bắc.
Mở đầu đoạn thơ miêu tả bức tranh tứ bình trong "Việt Bắc" là một câu hỏi tu từ - một câu hỏi để lại trong lòng bạn đọc ấn tượng khôn nguôi:
Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Với hình thức câu hỏi tu từ, ngắt nhịp chẵn cùng việc sử dụng điệp từ "ta" tác giả như muốn nhấn mạnh nỗi nhớ, cùng tấm lòng thủy chung son sắt của mình. Nỗi nhớ ấy, tấm lòng ấy gửi đến "hoa cùng người". Cách nói tách đôi "hoa" và "người" giúp người đọc nhận thấy sự kết hợp hài hòa, đan xen vào nhau giữa "hoa" - thiên nhiên Việt Bắc với "người" - những người dân Việt Bắc, những người tham gia vào cuộc kháng chiến trường kì, gian khổ của dân tộc.
Những nét vẽ đầu tiên cho bức tranh tứ bình trong bài thơ là khung cảnh mùa đông đẹp đẽ, tràn đầy sức sống nơi núi rừng Tây Bắc của Tổ quốc:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Hình ảnh thiên nhiên gợi ấn tượng đậm nét với bạn đọc về khung cảnh thiên nhiên Việt Bắc vào đông với một màu xanh bạt ngàn, vô tận ánh ngời lên sức sống mãnh liệt của thiên nhiên, cảnh vật nơi đây. Và để rồi, trên cái nền xanh ấy là sự điểm xuyết màu đỏ rực rỡ của những bông hoa chuối rừng. Hai gam màu ấy quyện hòa vào nhau dưới ánh nắng vàng làm cho bức tranh thêm sinh động ấm áp. Trên cái nền thiên nhiên vào đông ấy, hình ảnh con người hiện lên thật khỏe khoắn, mạnh mẽ và đầy chủ động "dao gài thắt lưng". Con người ở đây được đặt trong không gian thiên nhiên rộng lớn, bao la, kì vĩ song vẫn nổi bật lên một cách vững chãi, sánh ngang với tầm vóc thiên nhiên.
Không chỉ là khung cảnh Việt Bắc vào đông mà hình ảnh vào xuân của thiên nhiên Việt Bắc cũng được tác giả miêu tả một cách sinh động, độc đáo:
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Có thể nói, sắc trắng của hoa đào, hoa mận đã trở thành nét đặc trưng riêng của thiên nhiên Tây Bắc mỗi độ xuân về và ở đây, tác giả Tố Hữu đã thể hiện rõ điều đó. Đó là một bức tranh mùa xuân viên mãn và tràn đầy sức sống với sắc trắng của rừng mơ tinh khôi, trẻ trung, thơ mộng. Cái đẹp, cái quyến rũ của thiên nhiên dường như được tăng lên bội phần bởi chính cảm xúc trầm trồ, ngưỡng mộ của tác giả qua cách sử dụng từ "trắng rừng". Trên cái nền xao xuyến ấy của thiên nhiên, hình ảnh con người hiện lên thật lặng lẽ. Từng động tác "chuốt từng sợi giang" vừa gợi sự cẩn trọng, tỉ mỉ vừa gợi sự khéo léo, tài hoa của những người lao động Việt Bắc. Dường như, bao nhiêu yêu thương, bao nhiêu ân tình được người lao động gửi trọn vào trong đấy.
Nếu như bức tranh mùa xuân được tác giả vẽ lên bằng màu sắc của thiên nhiên Việt Bắc thì bức tranh mùa hè được tác giả gợi nên từ cả màu sắc lẫn âm thanh:
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Thiên nhiên có sự quyện hòa giữa sắc vàng của phách và âm thanh của tiếng ve để rồi như rộn lên những cảm xúc yêu mến, xốn xao khi phải chia li. Âm thanh và màu sắc cộng hưởng vào nhau, dường như, tiếng ve đã đánh thức màu sắc để tạo nên sự chuyển động mau lẹ "rừng phách đổ vàng". Chữ "đổ" được tác giả sử dụng thật tinh tế, gợi nên sự căng tròn, tràn trề và cả nguồn sống rạo rực. Trong cảnh sắc ấy, con người vẫn âm thầm "một mình" chăm chỉ "hái măng". Đó chính là hình ảnh người lao động chịu thương, chịu khó lặng thầm cống hiến cho đất nước, cho kháng chiến.
Hình ảnh kết thúc bức tranh tứ bình trong Việt Bắc đó chính là bức tranh về mùa thu - mùa thu hòa bình:
Mùa thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung
Bức tranh thiên nhiên hiện lên thật đẹp đẽ trong vẻ êm đềm, thơ mộng với ánh trăng tỏa sáng, chiếu rọi khắp núi rừng. "Trăng rọi hòa bình" là hình ảnh gợi tới ngày mai tươi sáng. Có thể nói, đây là một hình ảnh thơ được tạo nên bởi sự hòa quyện giữa cảm hứng thiên nhiên và cảm hứng lịch sử. Và để rồi, trong không khí ấy, con người hiện lên không phải bởi gương mặt, hình dáng mà bởi tiếng hát, với nét đẹp tâm hồn từ ngàn đời nay của dân tộc Việt Nam: ân tình, thủy chung, lạc quan và luôn tin vào một ngày mai tươi sáng.
Tóm lại, bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc hiện lên thật đẹp, thật sinh động bởi nó có sự gắn bó, hòa quyện giữa thiên nhiên và con người. Đồng thời, qua đó, chúng ta thấy được tài năng của Tố Hữu trong việc sử dụng ngôn ngữ, lựa chọn hình ảnh và tấm lòng ân tình, thủy chung của ông đối với quê hương cách mạng Việt Bắc.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
Tố Hữu đã từng nói : “Thơ chỉ tràn ra khi trong tim ta cuộc sống đã thật đầy”, chính những niềm thương, nỗi nhớ trào dâng ấy đã tạo ra những rung động mãnh liệt trong cảm xúc để rồi thơ ca đã trào ra bao nỗi nhớ thương vô vàn. Việt Bắc chính là những rung động mạnh liệt ấy của Tố Hữu. Bài thơ là kết tinh, là di sản của “mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng” giữa cán bộ cách mạng và nhân dân Việt Bắc. Tác phẩm là một khúc tình ca và cũng là khúc hùng ca về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến. Bài thơ được viết ra như lời hát tâm tình của một mối tình thiết tha đầy lưu luyến giữa người kháng chiến và đồng bào Việt Bắc được thể hiện qua lăng kính trữ tình – chính trị, đậm tính dân tộc và ngòi bút dạt dào cảm xúc của thi nhân. Đặc biệt là bức tranh tứ bình đươc nhà thơ khắc họa trong đoạn thơ:
Việt Bắc là khu căn cứ địa kháng chiến được thành lập từ năm 1940, gồm sáu tỉnh viết tắt là “Cao – Bắc – Lạng – Thái – Tuyên – Hà”. Nơi đây, cán bộ chiến sĩ và nhân dân Việt Bắc đã có mười lăm năm gắn bó keo sơn, nghĩa tình (1940 – 1954). Sau hiệp định Giơnevơ, tháng 10.1954, Trung ương Đảng và cán bộ rời Việt Bắc. Buổi chia tay lịch sử ấy đã trở thành niềm cảm hứng cho Tố Hữu sáng tác bài thơ “Việt Bắc”. Trải dài khắp bài thơ là niềm thương nỗi nhớ về những kỷ niệm kháng chiến gian khổ nhưng nghĩa tình.
Trong đoạn thơ trên, nhân vật trữ tình nhớ về cảnh thiên nhiên và con người lao động Tây Bắc bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông như một bức tranh tứ bình cổ điển mê đắm hôn người.
Đoạn thơ là một bức tranh Việt Bắc qua bốn mùa và hàm chứa trong đó một nỗi nhớ nhung da diết cùng tấm lòng thủy chung của tác giả nói riêng và người cán bộ nói chung dành cho Việt Bắc:
Hai câu thơ là lời hỏi và kể của người ra đi, muốn biết lòng người ở lại thế nào và tự bộc lộ tấm lòng của mình. Điệp ngữ “ta về” mở đầu cho hai câu thơ như đặt ra những nỗi niềm của người từ giã. Cái đẹp của câu thơ là hình ảnh “hoa cùng người”, phải chăng con người cũng là một bông hoa trong vườn hoa Việt Bắc. Hình ảnh tạo nên nét hài hòa giữa thiên nhiên và con người, hoa và người khi hòa vào nhau, khi tách biệt để tôn lên vẻ đẹp của nhau. Tiếp sau hình ảnh hoa và người là bức tranh bốn mùa Việt Bắc được vẽ ra hết sức chân thật cùng những màu sắc tươi tắn và âm thanh rộn ràng:
Mùa đông với màu xanh tha thiết, ngút ngàn của núi rừng trùng điệp hiện ra đầu tiên. Tác giả khắc họa mùa đông trước có lẽ bởi vì khi người cách mạng đến đây cũng vào mùa đông của đất nước và cũng chính thời điểm ấy sau mười lăm năm, người cách mạng cũng từ biệt Việt Bắc – cái nôi cách mạng Việt Nam.
Giữa cái nền xanh tươi của rừng thẳm nổi bật hình ảnh những bông hoa chuối đỏ tươi, làm cho núi rừng không lạnh lẽo hoang vu mà trở nên ấm áp lạ thường. Những bông hoa chuối ẩn trong sương như những ngọn đuốc hồng soi sáng chặng đường mà ta từng bắt gặp trong bài thơ Tây Tiến: “Mường lát hoa về trong đêm hơi”. Cái “đỏ tươi” của hoa chuối như xóa nhòa đi sự lạnh lẽo cô độc của mùa đông lạnh lẽo của núi rừng, như chất chứa, tiềm ẩn sức sống của đất trời. Sự đối lập trong màu sắc nhưng lại hài hòa trong cách diễn đạt khiến mùa đông nơi đây mang hơi hướng của mùa hè ấm áp trong thơ Nguyễn Trãi:
Giữa thiên nhiên ấy, nét đẹp của con người Tây Bắc hiện lên với một nét độc đáo rất riêng:
“Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”
Người Việt Bắc đi rừng bao giờ cũng gài một con dao ở thắt lưng để phát quang những chướng ngại và đề phòng thú dữ. Ở đây tác giả không miêu tả gương mặt hay thần thái mà miêu tả ánh sáng phản chiếu nơi lưỡi dao gài ở thắt lưng. Ánh nắng mặt trời chiếu xuống làm cho con dao lấy lánh ánh sáng tạo nên hình ảnh con người thật đẹp không thể nào quên, tưởng chừng con người chính là nơi hội tụ của ánh sáng, vừa lung linh vừa rực rỡ. Con người được đặt giữa “đèo cao, nắng ánh”, ở vị trí trung tâm giữa núi rừng Tây Bắc, vượt lên cả không gian với hình ảnh lớn lao, làm chủ thiên nhiên, làm chủ đất nước với hình ảnh kỳ vĩ, lớn lao.
Đông qua rồi xuân. Mùa xuân Việt Bắc hiện lên với sắc trắng của hoa mơ làm bừng sáng cả khu rừng:
Nhắc đến mùa xuân, người ta lại nhắc đến thời điểm khí hậu mát mẻ, cỏ cây hoa lá vì thế tràn đầy sức sống, đâm chồi, nảy lộc xanh non. Ngày xuân của Việt Bắc được Tổ Hữu nhìn với cái nhìn rất độc đáo: “mơ nở trắng rừng”. Nghệ thuật đảo ngữ “trắng rừng” sử dụng từ “trắng” với vai trò động từ chứ không còn là tính từ chỉ màu sắc. Thêm vào đó, động từ “nở” như sự lan tỏa của sắc trắng, lấn át mọi sắc xanh của lá rừng, tạo nên một không gian trong lành, dịu mát của hoa mơ, khiến bức tranh trở nên thanh khiết hơn, trữ tình hơn.
Giữa cái nền trắng của hoa mơ ấy, nổi bật lên hình ảnh con người lao động cần mẫn, dịu dàng: “chuốt từng sợi giang”. Con người đẹp một cách tự nhiên trong công việc hàng ngày. Động từ “chuốt” kết hợp với trợ từ “từng” đã thể hiện bàn tay khéo léo, tỉ mĩ, và tài hoa của người lao động. Đó cũng chính là những phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Bắc hào hùng nhưng cũng rất hào hoa.
Mùa hè đến, tiếng ve rộn rã vang lên khắp núi rừng:
Âm vang của tiếng ve làm lá phách đổ vàng. Tưởng chừng chỉ cần tiếng ve ngân lên đã làm tiết trời đột ngột chuyển từ xuân sang hè. Câu thơ có nét tương đồng với ý thơ “Một tiếng chim kêu sáng cả rừng” của Khương Hữu Dụng. Chỉ với một câu thơ mà gợi lên cả sự vận động của thời gian, của cuộc sống. Và trên cái nền vàng của rừng phách ấy, hiện lên hình ảnh thật đáng yêu làm cho bức tranh thêm nên thơ, trữ tình. Đó là hình ảnh: “cô em gái hái măng một mình”, hái măng một mình nhưng không hề cô đơn mà lại toát lên vẻ đẹp của người phụ nữ chịu thương chịu khó. Câu thơ mang nỗi niềm cảm thông và cảm kích người Việt Bắc, mà người đi không bao giờ quên được những tình cảm chân thành ấy.
Nhớ mùa hè rồi nhớ mùa thu Việt Bắc, nhớ khôn nguôi, nhớ trăng ngàn, nhớ tiếng hát:
Trăng xưa “vàng gieo ngấn nước cây lồng bóng sân”. Trăng Việt Bắc trong thơ Bác Hồ là “trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”. Người cán bộ kháng chiến về xuôi nhớ vầng trăng Việt Bắc giữa rừng thu, trăng “rọi” qua tán lá rừng xanh, trăng thanh mát rượi màu “hòa bình” nên thơ. “Ai” là đại từ nhân xưng phiếm chỉ, “nhớ ai” là nhớ về tất cả, về mọi người dân Việt Bắc giàu tình nghĩa thủy chung, đã hi sinh quên mình cho cách mạng và kháng chiến.
Đoạn thơ trên đây dào dạt tình thương mến. Nỗi thiết tha bồi hồi như thấm sâu vào cảnh vật và lòng người, kẻ ở người về, mình nhớ ta, ta nhớ mình. Tình cảm ấy vô cùng sâu nặng biết bao ân tình thủy chung. Năm tháng sẽ qua đi, những tiếng hát ân tình thủy chung ấy mãi mãi như một dấu son đỏ thắm in đậm trong lòng người.
Đoạn thơ mang vẻ đẹp một bức tranh tứ bình đặc sắc, đậm đà phong cách dân tộc. Mở đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là mùa đông năm 1946, đến mùa thu tháng 10 – 1954, thủ đô Hà Nội được giải phóng – Tố Hữu cũng thể hiện nỗi nhớ Việt Bắc qua bốn mùa: đông – xuân – hè – thu, theo dòng chảy lịch sử. Mỗi mùa có một nét đẹp riêng dạt dào sức sống: màu xanh của rừng, màu đỏ tươi của hoa chuối, màu trắng của hoa mơ, màu vàng của rừng phách, màu trăng xanh hòa bình. Thiên nhiên Việt Bắc trong thơ Tố Hữu rất hữu tình, mang vẻ đẹp cổ điển. Con người được nói đến không phải là ngư, tiều, canh, mục mà là người đi nương đi rẫy, là người đan nón, là cô em gái hái măng, là những ai đang hát ân tình thủy chung. Tất cả đều thể hiện những phẩm chất tốt đẹp của đồng bào Việt Bắc: cần cù, làm chủ thiên nhiên và làm chủ cuộc đời trong lao động, kiên nhẫn, khéo léo, tài hoa, trẻ trung lạc quan yêu đời, ân tình thủy chung với cách mạng và kháng chiến.
Một giọng thơ ngọt ngào, tha thiết bồi hồi cứ quyện lấy tâm hồn người đọc. Nỗi nhớ được nói đến trong “Việt Bắc” cũng như trong đoạn thơ này cho thấy một nét đẹp trong phong cách thơ Tố Hữu: chất trữ tình công dân và tính dân tộc, màu sắc cổ điển và tính thời đại được kết hợp một cách hài hòa.
Hình tượng đẹp, phong phú, gợi cảm. Một không gian nghệ thuật đầy sức sống, với những đường nét, âm thanh, màu sắc, ánh sáng, cấu trúc cân xứng hài hòa, để lại trong tâm hồn ta một ấn tượng sâu sắc như Bác Hồ đã viết: “Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay…”
Thơ đích thực “là ảnh, là nhân ảnh…, từ một cái hữu hình nó thức dậy được những vô hình bao la” (Nguyễn Tuân). Đoạn thơ trên đây gợi lên trong lòng ta tình mến yêu Việt Bắc, tự hào về đất nước và con người Việt Nam. Đoạn thơ “nhịp mãi lên một tấm lòng sứ điệp”, để ta thương, ta nhớ về mối tình Việt Bắc, mối tình kháng chiến.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
A. Mở bài
- Giới thiệu tác giả: Tố Hữu
+ Là nhà thơ tiêu biểu của nền văn học cách mạng Việt Nam.
+ Phong cách sáng tác: Đậm chất trữ tình - chính trị
- Giới thiệu tác phẩm: Việt Bắc
+ "Việt Bắc" là một trong những tác phẩm phản ánh cụ thể phong cách thơ của Tố Hữu, đó là khuynh hướng thơ trữ tình chính trị, khuynh hướng sử thi gắn liền với cảm hứng lãng mạn, giọng điệu tâm tình ngọt ngào tha thiết, tính dân tộc đậm đà.
+ Bài thơ được viết vào tháng mười năm 1954, ngay sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp vừa kết thúc thắng lợi, các cơ quan trung ương của Đảng và Chính phủ từ Việt Bắc – thủ đô gió ngàn của dân tộc trở về Hà Nội. Tác phẩm được xem là đỉnh cao của thơ ca kháng chiến chống Pháp.
- Giới thiệu khái quát về bức tranh tứ bình
B. Thân bài
* Toàn bộ đoạn thơ là những câu hỏi da diết, hoài nghi của người ở lại. Và để giải đáp những hoài nghi ấy, người kháng chiến đã nhiều lần khẳng định:
“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người”
1. Hai câu thơ đầu là bức tranh thiên nhiên và con người Việt Bắc vào mùa đông qua những nét chấm phá tinh tế.
- Trước hết, cảnh sắc thiên nhiên núi rừng Việt Bắc hiện lên trong nỗi nhớ của người ra đi đẹp tựa như một bức họa. Có người đã từng nói "Thơ là họa, là nhạc". Và có lẽ bức họa về thiên nhiên của Tố Hữu đã phản ánh rõ nét điều đó. Bức họa ấy được Tố Hữu phối màu thật tinh tế, khéo léo: giữa màu xanh u tịch nổi lên màu đỏ tươi của hoa chuối tựa như những bông hoa rực rỡ. Nhờ có sự phối màu này mà cái hoang lạnh, hắt hiu lau xám của miền sơn cước trong ngày đông trở nên thật ấm áp, rực rỡ.
* Liên hệ: Chúng ta cũng từng bắt gặp cách phối màu tương tự trong thơ ca trung đại:
"Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương"
hay
"Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông"
- Bức họa về thiên nhiên mùa đông còn được phác họa bởi những đường nét đối lập đầy ấn tượng. Giữa cái hùng vĩ bao la của núi rừng là cái đơn sơ nhỏ bé của hoa chuối. Nhưng không vì thế mà gợi cảm giác yếu đuối, đơn độc. Trái lại bức tranh mùa đông ấy vẫn thật khỏe khoắn, giàu sức sống.
- Trong khung cảnh của thiên nhiên mùa đông, con người Việt Bắc xuất hiện cũng là một điểm nhấn "Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng". Trong thơ Tố Hữu cũng hay miêu tả con người nhưng xuất hiện ở đây là những con người chất phác, cần cù với công việc lao động rất bình dị: làm nương, làm rẫy.
+ Hơn nữa, những con người giản dị ấy lại được xuất hiện trong không gian kì vĩ của đèo cao, vực sâu, xuất hiện lồng lộng, tự tin, kiêu hãnh với tư thế làm chủ, mang tầm vóc của cả một dân tộc, một thời đại hào hùng chứ không hề nhỏ bé yếu ớt như trong thơ của Bà Huyện Thanh Quan: "Lom khom dưới núi tiều vài chú".
+ Không chỉ dừng lại ở đó, con người Việt Bắc còn được xuất hiện trong một ánh sáng huy hoàng, lộng lẫy. Đó là ánh sáng được phản chiếu bởi ánh sáng của chiếc dao gài lấp lánh dưới ánh chiều nhẹ nhàng. Vì thế không quá khi nói rằng đó chính là ánh sáng của tinh thần lao động, ánh sáng tràn đầy tinh thần khỏe khoắn, lạc quan.
2. Cảnh sắc thiên nhiên và con người Việt Bắc tiếp tục thay đổi trong những ngày xuân.
- Trước hết thiên nhiên Việt Bắc như được thay da đổi thịt. Nếu thiên nhiên mùa đông gây ấn tượng với người đọc bởi sắc đỏ rực rỡ của hoa chuối thì sang màu xuân lại là sự trỗi dậy đầy viên mãn của rừng mơ.
+ Tố Hữu đã sử dụng phép đảo trong cụm từ "trắng rừng" vừa như thể hiện cảm xúc ngỡ ngàng, choáng ngợp vừa khiến cho cả không gian núi rừng tràn ngập một sắc trắng tinh khôi trong trẻo và lãng mạn.
+ Đặc biệt động từ "nhớ" càng nhấn mạnh rõ hơn sức sống mãnh liệt cùng sự lan tỏa mạnh mẽ của rừng mơ trong cảm nhận của Tố Hữu.
* Liên hệ: Quang Dũng cũng có cách nói tương tự "Mường Lát hoa về trong đêm hơi". Nếu "hoa về" của Quang Dũng đầy sinh động, mang bóng con người thì hoa của Tố Hữu mang sức sống lan tỏa của rừng mơ.
- Con người Việt Bắc trong bức tranh mùa xuân cũng được hiện lên không kém phần quyến rũ trong câu thơ "Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang".
+ Động từ "nhớ" được đặt ở đầu câu thơ như nhấn mạnh cảm xúc nhớ thương da diết của người ra đi dành cho người Việt Bắc. Đó chính là cảm xúc chủ đạo của toàn bộ đoạn thơ. Và cũng từ nỗi nhớ ấy, tác giả gợi nhắc cho người đọc về hình ảnh chiếc nón lá. Đây là hình ảnh thân thuộc gợi nhiều cảm xúc với mỗi người dân Việt Nam. Nhưng dưới ngòi bút của Tố Hữu, nhà thơ lại đi vào đặc tả từng động tác của người đan nón "chuốt từng sợi giang".
+ Ý thơ tựa như một thước phim ngợi ca từng động tác đan nón tỉ mẩn, khéo léo, chau chuốt chi tiết của người dân Việt Bắc. Và dường như người dân Việt Bắc dồn biết bao tâm huyết, tình yêu thương, sự nâng niu chắt chiu vào từng sản phẩm lao động. Có lẽ vì thế chiếc nón trở thành chiếc nón nghĩa tình, chiếc nón của người yêu thương.
=> Tóm lại, với bốn câu thơ, Tố Hữu đã hài hòa trong câu lục tả cảnh, câu bát tả người. Và sự hài hòa ấy tạo nên một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp, đầy màu sắc. Qua đó, Tố Hữu bộc bạch được tình cảm của mình với thiên nhiên núi rừng Việt Bắc và sự thủy chung son sắt với những con người chất phát, hiền hòa nơi đây.
3. Hè về, Việt Bắc hiện lên đầy sinh động với những âm thanh, màu sắc và đường nét:
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
- Vang vẳng trong không gian là tiếng ve kêu đặc trưng cho mùa hè.
+ Dù Tố Hữu không đi vào miêu tả trực tiếp, cụ thể âm thanh của tiếng ve nhưng người ta vẫn có thể cảm nhận được sự náo nức vang vong, rộn rã làm sống động của một không gian núi rừng vốn tĩnh lặng, quạnh hiu.
+ Điểm thêm trong bức tranh thiên nhiên mùa hè là sắc "vàng" của "rừng phách" đầy rực rỡ, lộng lẫy và kiêu sa. Và sắc vàng ấy không phải lan tỏa một cách chậm rãi, nhàn tản mà nó diễn ra một cách nhanh chóng, mau lẹ.
+ Động từ "đổ" là động từ mạnh diễn tả sư chuyển biến đầy bất ngờ, đột ngột qua đó người ta như cảm nhận được chỉ trong chớp mắt sắc vàng đã được lan tỏa một cách diệu kì khắp không gian. Một hình ảnh âm thanh đặt bên cạnh một hình ảnh thị giác càng khiến cho thiên nhiên hiện lên sinh động, gợi cảm và lãng mạn.
+ Màu của cây phách đổ vàng cả suối ngàn dường như làm cho ánh nắng của mùa hè và cả tiếng ve kêu râm ran kia nữa cũng trở nên óng ả.
=> Đây chính là một bức tranh sơn mài được khắc họa bằng hoài niệm, bức tranh ấy lung linh với ánh sáng, rực rỡ với màu sắc và rộn rã với âm thanh.Tố Hữu không chỉ có biệt tài trong việc miêu tả vẻ đẹp riêng của từng mùa, mà còn có tài trong việc miêu tả sự vận động đổi thay của thời gian và cảnh vật. Chỉ trong một câu thơ trên mà ta thấy được cả thời gian luân chuyển sống động: tiếng ve kêu báo hiệu mùa hè đến và cây phách ngả sang màu vàng rực rỡ. Đây chính là một biểu hiện đặc sắc của tính dân tộc.
- Hiện lên trong cái thiên nhiên óng vàng và rộn rã ấy, là hình ảnh cô gái áo chàm cần mẫn đi hái búp măng rừng cung cấp cho bộ đội kháng chiến hiện lên trong miền kí ức của thi nhân: "Nhớ cô em gái hái măng một mình".
+ "Hái măng một mình" mà không gợi lên ấn tượng về sự cô đơn, hiu hắt như bóng dáng của người sơn nữ trong thơ xưa; trái lại rất trữ tình, thơ mộng, gần gũi thân thương tha thiết. Hình ảnh thơ cũng gợi lên được vẻ đẹp chịu khó chịu thương của cô gái. Đằng sau đó, ẩn chứa biết bao niềm yêu mến, trân trọng của tác giả dành cho con người Việt Bắc.
4. Khép lại bức tranh tứ bình là hình ảnh mùa thu Việt Bắc đầy ngọt ngào, lãng mạn:
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
- Không gian bao la tràn ngập ánh trăng. Nhờ ánh trăng của đêm thu, thiên nhiên Việt Bắc hiện lên thật trong sáng, rạng ngời với tất cả sự huyền bí, đẹp đẽ tựa như cõi thơ, cõi mộng.
* Liên hệ: Câu thơ làm ta liên tưởng đến cảnh đêm rừng Việt Bắc trong bài "Cảnh khuya" của Hồ Chí Minh: "Trăng lồng cộ thụ bóng lồng hoa".
- Dường như không khí se lạnh của trời thu đã theo ánh trăng như bao phủ vạn vật, cỏ cây, ngấm vào nỗi nhớ của những con người gắn bó sâu nặng với Việt Bắc.
- Và ánh trăng ấy cũng chính là ánh trăng của tự do, của hòa bình đem đến sự bình yên, êm ả của quê hương đất nước từ chiến khu Việt Bắc xa xôi khiến cho lòng người không khỏi trở nên bình lặng sau những tháng ngày chiến đấu đầy gian khổ mà hào hùng. Hình ảnh "rừng thu trăng rọi hòa bình" chính là một hình thơ tuyệt đẹp được khắc họa bởi hồn thơ Tố Hữu.
- Trong không gian đêm tĩnh lặng nơi núi rừng cùng mặt trăng tròn vành vạnh trên bầu trời ngân vang đâu đây "Tiếng hát ân tình thủy chung".
+ Một tiếng hát xa xăm, không hề rõ câu từ nhưng ta lại có thể cảm nhận được cả cái tình, nỗi niềm ẩn dấu.
+ Nhà thơ sử dụng đại từ "ai" khiến hình ảnh con người hiện lên đầy mơ hồ, mờ ảo.
+ Đó là tiếng hát trong trẻo của đồng bào dân tộc, là tiếng hát nhắc nhở thủy chung ân tình và cũng là tiếng hát của Việt Bắc của núi rừng của tình cảm mười lăm năm gắn bó thiết tha mặn nồng. Qua đó, nhà thơ như ngầm khẳng định vẻ đẹp con người nơi "thủ đô gió ngàn": một lòng thủy chung son sắt với cách mạng, với dân tộc.
=> Với những nét chấm phá đơn sơ giản dị, vừa cổ điển vừa hiện đại, đoạn thơ trên của Tố Hữu đã làm nổi bật được bức tranh cảnh và người qua bốn mùa của chiến khu Việt Bắc. Cảnh và người hòa hợp với nhau tô điểm cho nhau, làm cho bức tranh trở nên gần gũi thân quen, sống động và có hồn hơn. Tất cả đã tan chảy thành nỗi nhớ nhung quyến luyến thiết tha trong tâm hồn người cán bộ về xuôi.
C. Kết bài
- Khẳng định giá trị của tác phẩm
- Tình cảm của em dành cho tác phẩm
Bảng tin