4
2
Hãy luôn nhớ cảm ơn và vote 5*
nếu câu trả lời hữu ích nhé!
7
7
trả lời :
slide giảng dạy về văn miếu quốc tử giám :
Văn Miếu Quốc Tử Giám tọa lạc giữa thủ đô Hà Nội, được xem là trường đại học đầu tiên tại Việt Nam. Từ những năm đầu tiên, ngôi trường này đã tụ họp rất nhiều người tài, đóng góp vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Hiện nay Văn Miếu vẫn là điểm đến của nhiều du khách khi ghé thăm Hà Nội bởi kiến trúc độc đáo, ấn tượng.
Văn Miếu Quốc Tử Giám đã trải qua bao nhiêu biến động, thăng trầm của lịch sử nhưng nó vẫn giữ được nét đẹp truyền thống của con người Hà Nội. Đó là giá trị tinh thần cao đẹp được gìn giữ từ bao nhiêu năm. Văn Miếu nằm ở phía Nam kinh thành Thăng Long thời Lí. Văn Miếu được được vào hoạt động trong khoảng thời gian từ 1076 cho đến 1820, đào tạo ra nhiều nhân tài cho đất nước.
Văn Miếu bao gồm hai di tích chính là Văn Miếu thờ Khổng Tử, các bậc hiền triết và Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An, người thầy đầu tiên của trường học. Trải qua bao nhiêu năm nhưng Văn Miếu vẫn giữ được những nét đẹp cổ xưa.
Ban đầu Văn Miếu là nơi học tập của các hoàng tử, sau này mới mở rộng ra cho những người tài trong cả nước. Văn Miếu có diện tích 54.331 m2 bao gồm Hồ Văn, vườn Giám và nội tự được bao quanh bằng tường gạch vồ. Với những kiến trúc được thiết kế từ thời xa xưa, in dấu biết bao nhiêu thăng trầm của thời gian, của những đổi thay đất nước.
Khi bước vào khu Văn Miếu, du khách sẽ đến với cổng chính, trên cổng chính là chữ Văn Miếu Môn. Phía ngoài cổng có đôi rồng đá thời Lê, bên trong là rồng đá thời Nguyễn. Khu thứ hai chính là Khuê Văn Các được xây dựng năm 1805 gồm 2 tầng, 8 mái rất rộng rãi. Đây là nơi tổ chức bình các bài thơ và văn hay của sĩ tử thời xưa. Khu thứ ba chính là từ gác Khuê Văn tới Đại Thành Môn, ở giữa có một hồ vuông gọi là Thiên Quang Tĩnh. Ở hai bên hồ là nơi lưu giữ 82 bia tiến sĩ có ghi tên, quê quán, chức danh của những người nổi tiếng như Ngô Thì Nhậm, Lê Quý Đôn...
Cuối sân là nhà Đại bái và hậu cung; có những hiện vật quý hiếm được lưu truyền từ bao đời nay như chuông Bích Ung do Nguyễn Nghiêm đúc vào năm 1768. Đây được xem là chiếc chuông lớn, có giá trị lịch sử và văn hóa lâu đời. Tấm khánh mặt trong có hai chữ Thọ Xương, mặt ngoài khắc bài mình biết theo kiểu chữ lệ nói về công dụng loại nhạc cụ này. Khu thứ 5 chính là Trường Quốc Tử Giám. Ở đây là nơi dạy học, tuyển chọn người tài, đỗ đạt cao giúp cho vua nâng cao trí thức. Có rất nhiều người từ ngôi trường này đã gây nên tiếng vang lớn cho đến ngày nay như Chu Văn An, Bùi Quốc Khải...
Văn Miếu Quốc Tử Giám được xây dựng chủ yếu bằng gỗ lim, gạch đấy nung, ngói mũi hàng mang nét nghệ thuật của triều Lê và Nguyễn. Những nét kiến trúc độc đáo ấy được xây dựng khéo léo bởi những bàn tay tài hoa.
Cho đến ngày nay Văn Miếu Quốc Tử Giám vẫn là địa điểm du lịch của rất nhiều người, vừa nhớ về cội nguồn, vừa khấn bái, vừa tìm hiểu được lịch sử của cha ông ta. Nơi đây còn được xem là tâm điểm của Hà Nội, của thủ đô nghìn năm văn hiến.
slide giảng dạy về Chùa một cột
Du lịch đang là một ngành kinh tế quan trọng giúp phát triển kinh tế của nước ta. Ngày nay, du khách không chỉ quan tâm đến những địa danh nổi tiếng mà còn chú ý đến những địa danh, kiến trúc thời xã hội phong kiến, Chùa Một Cột là một địa danh rất được ưa chuộng hiện nay.
Chùa Một Cột còn có tên gọi khác là chùa Diên Hựu hay còn gọi là Liên Hoa Đài (tức đài hoa sen). Chùa Một Cột nằm ở quần thể xã Than Bảo, huyện Quảng Đức, phía Tây Hà thành Thăng Long thời Lý, nay thuộc quận Ba Đình, thành phố Hà Nội, gần Lăng chủ tịch Hồ Chí Minh.
Theo Đại Việt sử kí toàn thư, Chùa Một Cột dựa trên giấc mộng của vua Lý Thái Tông. Một hôm, vua Lý Thái Tông nằm mơ thấy Phật Quan Âm ngồi trên một chiếc đài sen và mời vua đi lên đó. Ngày hôm sau, vua Lý Thái Tông kể lại cho tất cả triều thần nghe về giấc mộng của mình. Tất cả quần thần đều cho đó là một điềm xấu. Nhưng có một nhà sư tên là Thiền Tuệ cho đó là điềm báo tốt và khuyên nhà vua nên xây dựng một kiến trúc như vậy. Nghe theo lời khuyên của nhà sư, vua liền cho xây một công trình kiến trúc như giấc mơ của mình. Và vì vậy, Chùa Một Cột được xây dựng.
Chùa Một Cột là một công trình kiến trúc độc đáo. Nhìn từ xa, ngôi chùa trông giống một bông hoa sen đang nở. Ngôi chùa được làm hoàn toàn bằng gỗ. Cột ở giữa được coi là thân sen, bên trên là chiếc đài sen. Bên trong Chùa Một Cột là tượng phật Quan Âm để nhân dân ta cầu may mắn. Vào năm 1105, vua Lý Nhân Tông cho mở rộng kiến trúc của chùa và xây thêm Hồ Linh Chiểu. Ngày xưa, khi thực dân Pháp rút khỏi nước ta đã dùng bom, mìn đánh vào Chùa Một Cột. Khi đó, chùa không bị sập hoàn toàn nên đã được tu sửa lại gần giống với chùa cũ. Ngày nay, chùa chỉ còn là một ngôi chùa nhỏ gồm có Đài Liên Hoa là hình vuông với chiều dài mỗi cạnh khoảng 3m, có mái cong dựng trên cột đá cao khoảng 4m (không kể phần đất bị chìm ở dưới) với đường kính khoảng 1,2m. Cột đá gồm hai mảnh chồng lên nhau tạo thành một khối vững chắc. Tiếp đến là hệ thống những đòn gỗ giúp cho ngôi chùa giữ thăng bằng tốt hơn. Sự độc đáo của ngôi chùa giống y như cái tên của nó. Đó là ngôi chùa được xây dựng trên một cột đá tròn nhô lên trên mặt nước giống bông sen vươn lên mặt hồ. Để vào được chùa chúng ta phải qua một cây cầu. Cây cầu này có hình dạng rất giống với chiếc cầu vồng.
Chùa Một Cột là một danh lam thắng cảnh đặc sắc không chỉ của thủ đô Hà Nội mà còn là của cả đất nước Việt Nam, vì vậy chùa mang tính chất tôn giáo và văn hóa cao. Ngôi chùa là một công trình kiến trúc của cha ông ta ngày xưa để lại cho con cháu ngày nay. Hằng năm, cứ vào những ngày lễ tết, nhân dân ta thường đến đó thờ cúng, tỏ lòng biết ơn tổ tiên. Ngôi chùa là tượng trưng cho những con người trong sạch không bị cám dỗ bởi danh lợi giống như bông hoa sen dù ở trong bùn đất cũng vẫn nở hoa thơm ngát.
Theo thời gian, ngôi chùa sẽ dần hỏng hay bị mục gỗ. Vậy nên, những người đến tham quan nên có ý thức bảo vệ ngôi chùa. Khi du khách đến tham quan, không nên vứt rác bừa bãi, không được tự ý đụng chạm vào những đồ dùng quý hiếm và nên đi đứng nhẹ nhàng để ngôi chùa ngày càng được trường tồn theo thời gian.
Chùa Một Cột là ngôi chùa có diện tích khá nhỏ nhưng là một kiến trúc độc đáo của Hà Nội nói riêng và của Việt Nam nói chung được xây dựng trên một bông hoa sen. Chùa Một Cột là ngôi chùa khá yên tĩnh nên rất thích hợp cho những du khách muốn dừng chân để có một khoảng lặng sau những ngày tháng mệt mỏi, bộn bề.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
Văn miếu Quốc Tử Giám là một trong những di tích lịch sử quan trọng bậc nhất của Quốc gia. Đây được xem là trường đại học đầu tiên của Việt nam lưu giữ và tôn vinh những học giả tài trí của dân tộc. Với bề dày lịch sử và chiều sâu văn hóa, Quốc Tử giám được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa ngày 28/4/1962 và cho đến nay, đây vẫn luôn là một điểm thu hút nhiều khách du lịch không thể bỏ qua khi tới thăm thủ đô Hà Nội.
“Năm canh tuất, niên hiệu Thần Vũ thứ 2 đời lý thánh tông, mùa thu tháng 8 làm văn miếu, đắp tượng Khổng Tử, Chu Công và Tứ phối, vẽ tượng Thất thập nhị hiền, bốn mùa cúng tế. Hoàng thái tử đến học ở đây”. Từ nền tảng đó, Văn miếu Quốc tử giám tiếp tục trùng tu và xây dựng cho đến ngày 13/7/1999, khi thành Phố Hà Nội khởi công xây dựng công trình nhà thái học trong khu Văn Miếu quốc tử giám.
Nơi đây đã cho ra đời rất nhiều nhân tài của đất nước. Trải qua bao nhiêu năm, vô vàn các bia gạch đá tiến sĩ đã được xây dựng nhằm tôn vinh, tưởng nhớ các nhân tài.
Di tích lịch sử Văn Miếu có diện tích 54.331m2 gồm: Hồ Văn, vườn giám và nội tự được bao quanh bằng tường gạch vồ. Phía trước cổng lớn là tứ trụ, hai bên tứ trụ có hai bia “Hạ mã”. Nội tự được chia làm năm khu vực, mỗi khu vực được phân chia nhằm dựng bia và thờ bài vị của các học giả tài ba khắp cả nước.
Khi du khách tới tham quan khu bia đá, chúng ta có thể tìm thấy tên tuổi của nhiều danh nhân từng được nhắc đến trong các sách sử Việt nam như: nhà sử học Ngô Sĩ Liên- Tiến sĩ năm 1442 đã soạn bộ sách Đại Việt sử ký toàn thư hay nhà bác học Lế Qúy Đôn,… Thông qua các tấm bia, chúng ta không chỉ được mở mang hiểu biết về thân thế sự nghiệp của các sử thần Việt nam, ta còn được biết thêm về mối quan hệ bang giao giữa các nước khu vực Đông Nam á. Đây được xem là những tác phẩm vô giá, góp phần làm nên truyền thống văn hóa, giáo dục của Việt nam. Cho đến nay, phần lớn các hoa văn và văn tự trên bia đá còn rõ nét. Chữ viết và phong cách trang trí của mỗi dáng bia, đầu rùa đều mang dấu ấn thời đại tạo nên chúng.
Nổi bật trong khuôn viên Quốc Tử giám là chiếc chuông Bích Ung do Nguyễn Nghiêm đúc vào năm 1768. Đây được xem là chiếc chuông lớn, mang nhiều giá trị lịch sử lâu đời. Tấm khánh mặt trong có hai chữ Thọ xương, mặt ngoài khắc bài mình viết theo kiểu chữ lệ nói về công dụng của chiếc chuông.
Văn Miếu Quốc tử giám luôn đề cao “nhân tài đối với quốc gia quan hệ rất lớn” và “phải có đào tạo sau mới có nhân tài”. Vì thế nơi đây là chiếc nôi nuôi dưỡng rất nhiều tài năng được trọng dụng qua thời nhà Lê, Mạc, Nguyễn…Điều này tạo nên một tập tục của người Việt, trước khi đi thi đều tìm đến nơi đây để cầu mong được may mắn và tịnh tâm, để đạt được thành tích tốt trong các cuộc thi.
Một sự kiện nổi bật về di tích này chính là đã được UNESCO công nhận bia tiến sĩ văn miếu- quốc tử giám là di sản tư liệu quốc tế. Đây là niềm tự hào của toàn thể dân tộc Việt Nam, và của lịch sử phát triển loài người nói chung.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
Bảng tin